Hai người lính trẻ từ hai chiến tuyến |
Xin mời xem thêm chùm ảnh: Đời thường trong dinh Độc Lập, ngày 30.4.1975, tại Mai Thanh Hải - Blog.
Hai người lính trẻ từ hai chiến tuyến |
Đăng bởi admin lúc 1:43 Sáng 28/04/12
VRNs (28.04.2012) - AFP - Theo AFP, Cục Điều tra Liên bang Mỹ – FBI, hôm qua, 23/04/2012, cảnh báo, từ tháng Bảy tới, sau khi hệ thống bảo vệ chống tin tặc tạm thời hết hạn, trên thế giới sẽ có khoảng 300 000 người không thể truy cập vào internet.
Phát ngôn viên của Cục Điều tra Liên bang Jenny Shearer cho biết, FBI khuyến cáo người sử dụng internet mau chóng truy cập vào mạng www.dcwg.org, để xem liệu máy của họ có bị một phần mềm tin tặc xâm nhập hay không. Phần mềm độc hại này bị phát hiện hồi tháng 11/2011.
Theo tính toán của FBI, có khỏang 568 000 máy tính đã bị nhiễm phần mềm tin tặc. Phần mềm này có khả năng đặt lại chương trình máy tính, hướng người sử dụng đến những địa chỉ giả mạo mà họ không hề biết là bị mắc lừa.
Trong một chiến dịch truy tìm tội phạm trên mạng mang tên « Ghost Click », hồi tháng 11 năm ngoái, FBI đã phát hiện ra mạng lưới tin tặc nói trên và bắt giữ 5 người Estonia và Nga. Ngay sau đó, FBI đã thay hệ thống bị tin tặc tấn công bằng một dịch vụ bảo vệ khác, nhằm bảo vệ người truy cập internet. Tuy nhiên, theo phát ngôn viên của FBI, dịch vụ này không phải là giải pháp thường xuyên và sẽ hết hạn sử dụng vào tháng Bảy này.
Năm tháng sau vụ phá vỡ mạng lưới tin tặc nói trên, khoảng 360 000 máy tính, vốn bị nhiễm phần mềm độc hại, đã được kết nối với hệ thống bảo vệ của FBI. Các máy này chủ yếu đặt tại Hoa Kỳ, châu Âu và Ấn Độ. Bên cạnh đó, khoảng 300 000 máy khác vẫn bị nhiễm virus tin học.
Vì thế, FIB khuyên người sử dụng internet kiểm tra bằng cách truy cập vào địa chỉ www.dcwg.org. Bà Jenny Shearer nói rõ: « Nếu máy tính được kết nối với dịch vụ bảo vệ thì sẽ nhận được những chỉ dẫn. Còn nếu máy tính của bạn không phụ thuộc vào hệ thống bảo vệ, bạn sẽ thấy màn hình xanh, điều này có nghĩa là máy tính của bạn không bị nhiễm ».
Anh Vũ
Chiến đấu cơ tàng hình F-22 Raptor của Không Quân Mỹ đậu tại căn cứ của Hoa Kỳ ở Osan, Nam Hàn. (Hình: Kim Min-Hee/Getty Images) |
Theo báo cáo của FBI trình cho tòa, được công bố hôm 25 Tháng Tư, hai người Ðài Loan bị bắt sau khi nói với nhân viên chìm của Mỹ rằng, họ làm việc với “giao liên” thuộc tình báo Trung Quốc, và muốn mua một chiếc phi cơ thám thính không người lái cùng kỹ thuật tàng hình liên hệ đến chiến đấu cơ F-22 Raptor.
Âm mưu này bị phát giác trong cuộc điều tra trước đó về việc hai người này bị cho là liên quan đến một vụ buôn bán hàng giả trị giá hàng trăm triệu dollar, kể cả hoạt động mua bán chất ma túy crystal methamphetamine.
Hui Sheng Shen, được biết với tên “Charlie,” 45 tuổi và Huan Ling Chang, với tên “Alice,” 41 tuổi, bị truy tố tội vi phạm luật kiểm soát xuất cảng vũ khí (Arms Export Control Act), cùng với tội liên quan đến ma túy. Với những tội danh này họ có thể trực diện bản án tù chung thân.
Theo hồ sơ của FBI, một người buôn lậu ma túy trung gian ở Hồng Kông đã vô tình dẫn nhân viên chìm đến gặp Shen và Chang. Hồi mùa Hè 2011, hai người này thảo luận với nhân viên chìm về hoạt động buôn lậu ma túy nhưng đến Tháng Chín họ mới đề cấp đến việc mua máy bay tàng hình, phi cơ trinh sát E-2C Hawkeye, và kỹ thuật tàng hình của chiếc F-22.
Cuộc theo dõi kết thúc hồi Tháng Hai 2012, khi nhân viên FBI gặp gỡ Shen và Chang để “chung kết” cuộc mặc cả quan trọng về ma túy, đồng thời cho phép hai người này chụp hình một số kỹ thuật bảo mật của quân đội Mỹ.
Thẩm phán liên bang Paul Fishman nói: “Lệnh truy tố này cho thấy rõ vì sao chúng ta phải có hành động, và những gì gặp nguy hiểm một khi an ninh ở các bến cảng của chúng ta bị xâm nhập vì bất kỳ lý do nào.” (TP)
Rõ ràng đã chưa có gì thay đổi đáng kể sau vụ Tiên Lãng. Bài học mà giới chức lãnh đạo cao cấp ở Việt Nam tưởng chừng đã “ngộ” ra, thì nay vẫn bị căn bệnh hoang tưởng chính trị chèn ép. Nguy cơ xung đột đất đai giữa người dân và chính quyền lại càng trở nên rõ rệt hơn bao giờ hết.
Việc gì phải sợ nó!
Vào thời gian này, có một lời than phiền rất phổ biến trong giới cán bộ chính quyền “Sau vụ Tiên Lãng, anh em mình hình như nhát tay hơn, hơi một chút là sợ xung đột”.
Nhưng lại vẫn có những cán bộ cố gắng lên gân: “Chính quyền, luật pháp trong tay, việc gì phải sợ nó!”.
Không phải giải thích, chắc bạn đọc cũng hiểu “nó” là ai.
Vào đầu tháng 4/2012, tại một cuộc họp sơ kết tình hình khiếu nại tố cáo đầu năm, Tổng Thanh tra Chính phủ đã phát ra thông tin là từ sau vụ Tiên Lãng, số lượt người, số đoàn đông người lẫn số vụ việc tăng hẳn lên. Cụ thể, số lượt người khiếu nại tố cáo trong tháng 3 tăng 50% so với tháng 2/2012, số đoàn đông người tăng 30%. Trong số này chủ yếu vẫn là các vụ khiếu kiện liên quan đến đất đai với tính chất rất phức tạp, gay gắt.
Khá tương đồng với cuộc khiếu kiện tập thể đông người hơn 500 người tại trụ sở Văn phòng 2 Quốc hội tại quận Phú Nhuận vào năm 2007, lần này người dân khiếu kiện cũng đến từ nhiều tỉnh như Bình Thuận, Bà Rịa – Vũng Tàu, Đồng Nai, An Giang, Tiền Giang, Kiên Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp, Bình Dương, TP.HCM… Không hẹn mà gặp, giữa người dân các tỉnh đã có một mối dây tương thích về chia sẻ cảnh ngộ và phương thức đấu tranh đòi quyền lợi chính đáng của mình.
Tính chất khiếu kiện có tổ chức cũng được thể hiện qua “đồng phục” như những cái áo cùng màu, trên đó được viết tay hoặc in những hàng chữ với nội dung phản đối chính quyền và một số cá nhân lãnh đạo trong chính quyền địa phương về chính sách bồi thường không thỏa đáng, chèn ép dân, nạn cướp đất…
Lẽ đương nhiên, các cơ quan của đảng và chính quyền, từ Ban Dân vận, Ban Tuyên giáo đến cơ quan giải quyết khiếu nại tố cáo, chính quyền địa phương và đặc biệt là cơ quan công an đã có lý do để ghép hành vi người dân khiếu kiện đất đai thành “gây rối có tổ chức”. Vô tình hay hữu ý, cán bộ của những cơ quan này, trong khi không mấy quan tâm đến nguồn gốc đầy mất mát thương tâm của các vụ việc khiếu kiện, lại vẫn một lần nữa nhấn mạnh hình ảnh “các thế lực thù địch” đang kích động, lôi kéo người dân đi khiếu kiện, tiến đến gây mất ổn định trật tự xã hội và an ninh chính trị.
Chỉ có điều, từ ngữ “cưỡng chế” đã được hạn chế đến mức tối thiểu trong các văn bản chỉ đạo nội bộ và càng được tiết giảm trong các cuộc tiếp xúc, đối thoại giữa cán bộ giải quyết khiếu nại với người dân. Dường như sau vụ việc Tiên Lãng, cái từ mà một thời hết sức thịnh hành và thịnh bạo kia lại trở nên rất “nhạy cảm” trong tâm trí và nơi cửa miệng của giới chức chính quyền.
Từ Hà Nội nhìn lên Bắc Kinh
Một điểm tương đồng thú vị cũng đã diễn ra trong cùng thời gian đầu năm 2012, khi từ ngày 10/4 năm nay, các quy định mới về cưỡng chế, thu hồi đất đai do Tòa án Nhân dân Tối cao Trung Quốc ban hành chính thức có hiệu lực. Theo đó, chính quyền không được tiến hành cưỡng chế nếu gặp phải một trong những tình huống như: thiếu căn cứ thực tế, thiếu căn cứ pháp luật, bồi thường không công bằng, không rõ ràng, ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền lợi hợp pháp của người bị cưỡng chế, không đảm bảo điều kiện sống cơ bản hoặc điều kiện kinh doanh sản xuất của người bị cưỡng chế.
Việt Nam và Trung Quốc từ lâu đã có mối quan hệ “môi với răng”, và giờ đây dường như giới chức Hà Nội cũng đang theo dõi sát sao từng động thái đối nội của chính phủ Bắc Kinh để tái hiện nguyên tắc hành xử trong quốc gia mình.
Như một hiệu ứng đồng pha, từ giữa năm 2011 đến nay đã đồng thời diễn ra một phong trào khiếu kiện đất đai lan rộng và với mức độ gay gắt bất thường ở cả hai nước Trung Quốc và Việt Nam. Đặc trưng mà giới chức chính quyền đã tổng kết về khiếu kiện là hình thức tập trung và đông người, trong hơn một năm qua đã “vươn lên một tầm cao mới”: phản ứng đất đai, được biểu thị cụ thể bằng phản ứng tiêu cực đối với bản thân của người dân và hành vi xung đột của người dân với chính quyền.
Vào năm 2011, nếu ở Trung Quốc đã từng xảy ra trường hợp ba anh em một gia đình nông dân ở Hà Bắc đồng lòng tự thiêu để phản đối nạn cướp đất của chính quyền, thì ở Việt Nam cũng có những trường hợp tương tự ở Bắc Giang, TP.HCM, Bình Phước… Nếu ở Việt Nam đã xảy ra vụ việc Đoàn Văn Vươn dùng mìn và súng hoa cải để chống đối lực lượng cưỡng chế, thì mới đây ở Vân Nam (Trung Quốc), trong một cuộc biểu tình chống ô nhiễm môi trường và do bị đàn áp, người dân biểu tình đã dùng lưỡi hái phản ứng quyết liệt và gây ra cái chết cho ít nhất một cảnh sát.
Có rất nhiều minh họa về biểu tình và chống biểu tình đất đai mà đã dẫn đến xung đột triền miên tại nhiều địa phương. Về mặt từ ngữ, chắc chắn đã đến lúc cụm từ “khiếu kiện đất đai” lạc hậu kia cần được thay thế bởi một cụm từ với ngữ nghĩa đầy đủ hơn nhiều: “phản ứng đất đai”. Trong “phản ứng đất đai” không chỉ có hình thức tập trung khiếu nại và tố cáo đông người, mà còn được đẩy đến hành động tự bảo vệ tài sản, gây ra xung đột với quy mô và tính chất quyết liệt ngày càng tăng giữa người dân với các cơ quan hành pháp. Đó cũng là một dạng bi kịch ở Việt Nam hiện thời.
Sẵn sàng đối đầu!
Nhưng chuỗi bi kịch đó vẫn hoàn toàn chưa có cơ may nào chấm dứt khi sau vụ việc Tiên Lãng, khi trong mấy tuần qua, ở Hà Nội lại liên tiếp xảy ra các vụ biểu tình của người dân ở Hưng Yên và chính người dân Hà Nội chống lại nạn cướp đất đến từ những chủ đầu tư dự án trong mối câu kết với các quan chức chính quyền. Khác nhiều với không khí đấu tranh ở khu vực phía Nam, người dân phía Bắc lại tỏ ra “giác ngộ” hơn về nhận thức và thái độ sẵn sàng quyết liệt đối với lực lượng chống biểu tình, bao gồm cảnh sát cơ động và dân phòng.
Rõ ràng đã chưa có gì thay đổi đáng kể sau vụ Tiên Lãng. Bài học mà giới chức lãnh đạo cao cấp ở Việt Nam tưởng chừng đã “ngộ” ra, thì nay vẫn bị căn bệnh hoang tưởng chính trị chèn ép. Những gì mà giới chức chính quyền địa phương lẽ ra phải được giáo huấn một cách thật sự nghiêm khắc thì lại bị chính quyền trung ương phớt lờ. Hoặc cho rằng vụ việc Đoàn Văn Vươn chỉ là “hành động cá nhân đơn lẻ”, hoặc cho rằng sự can thiệp của đích thân Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vào vụ việc này đã đủ để thuyết phục và làm dịu dân chúng, hoặc vẫn tiếp tục bị các nhóm lợi ích của chủ đầu tư và đương nhiên có cả quyền lợi của giới chức chính quyền lấn át…, nội bộ Đảng và guồng máy chính quyền lại tái diễn tình trạng nửa thức nửa ngủ cùng mối bận rộn về thói quen chia rẽ và bè phái, trong khi để mặc cho chính quyền địa phương tự tung tự tác tại các dự án giải tỏa và lấn chiếm đất đai.
Cứ như thế, trong khi mọi chuyện vẫn chưa có gì được cải thiện, nguy cơ xung đột đất đai giữa người dân và chính quyền lại càng trở nên rõ rệt hơn bao giờ hết.
Với người dân bị mất đất, rõ ràng là không còn cách nào khác, họ phải liều lĩnh hành động để giành giật sự sinh tồn cuối cùng cho gia đình mình. Thái độ và bản lĩnh trong việc thách thức và sẵn sàng đối đầu, chống đối chính quyền cũng vì thế đang có chiều hướng bùng phát – một sự bùng phát mà đến một thời điểm nào đó, mọi cố gắng kềm chế sẽ trở nên bất khả kháng.
Như Nữ Vương Công Lý đã đưa tin:
Ngày 14/4/2012, nhà cầm quyền Chương Mỹ, Hà Nội dùng một bọn côn đồ và công an giả danh côn đồ đập phá nhà nuôi trẻ cô nhi do linh mục Giuse Nguyễn Văn Bình, chánh xứ Yên Kiện tổ chức. Kết quả là linh mục Bình bị đánh bất tỉnh, nhiều giáo dân bị đánh tàn ác, dã man, các trẻ cô nhi bị đuổi ra khỏi nhà, vật dụng vứt ra sân và ngôi nhà bị đập phá tan tành.
Công an xã Thủy Xuân Tiên còn vơ vét bằng sạch những thứ có thể được đưa đi bán sắt vụn.
Hiện nay, các cháu không người chăm sóc, đang sống vạ vật nhờ sự hảo tâm của các gia đình xung quanh. Mời quý vi độc giả đọc lá thư cháu Nguyễn Huyền Anh, một cô nhi do Linh mục Giuse Nguyễn Văn Bình nuôi nấng chăm sóc:
Chương Mỹ ngày 17/04/2012
Kính gửi: Các ông bà,các cô chú và các anh chị - những người quan tâm và bênh vực quyền trẻ em trên toàn thế giới
Con tên là Nguyễn Huyền Anh, con 13 tuổi, quê con ở Hà Giang. Gia đình con có 3 người nhưng con đã sớm không còn được hưởng tình yêu thương của cha me, bởi vì cha mẹ con đã mất sớm, và bây giờ con chỉ còn lại một mình. Lúc đó con đã chìm trong bóng tối của sự khổ đau mất mát và tuyệt vọng, cũng trong lúc đó con đã gặp Cha Giuse Nguyễn Văn Bình. Con cảm nhận được từ nơi Cha một cái nhìn ấm áp và lòng cảm thương sâu sắc dành cho con. Con thật hạnh phúc khi đón nhận tình thương đó và không biết tự lúc nào con đã gọi người đó là “ Ba “ Con là người hiểu Ba, con biết trong lòng Ba luôn thao thức xây dựng một ngôi nhà cho những đứa trẻ mồ côi, để chúng được sống cuộc sống của một gia đình, tràn đầy tình yêu thương và bình an.
Khi căn nhà gần như đã hoàn thành , Ba cho chúng con tới đó. Ngay từ đầu con đã thấy rất vui và chúng con có thật nhiều việc cần phải làm để biến nơi ấy thành căn nhà mơ ước của chúng con. Hằng ngày chúng con đã chăm sóc cho cây sấu, cây hoa sữa và hàng cau do chính tay Ba con trồng. Chúng con đã trồng những luống rau và giờ chúng đã lên xanh tốt, những con gà thì được sống trong chuồng mà chúng con và các cô đã xếp lên. Và ngôi nhà của chúng con đã được hình thành như vậy, từ những điều nhỏ bé nhưng chứa đựng tình yêu thương của một gia đình thực sự
Ngọn lửa đang thắp sáng thì đã bị dập tắt vào lúc 4 giờ sáng ngày 14/04/2012. Đó là cả một chương trình đã được lên kế hoạch từ trước vì gia đình con bị cắt điện. Có một đám đông đi trong bóng tối qua nhà hàng xóm và đột nhập vào nhà con. Họ khống chế và đe dọa những gia đình hàng xóm rồi mới vào nhà con. Họ bắt giữ bác con vào một nơi riêng biệt, họ tát anh Vì rất nhiều cái, họ đánh cô con bị thương, họ đe dọa con và những người trong phòng con, họ lấy mất tượng Đức Mẹ mà Ba con đã tặng cho gia đình Agape của chúng con, ảnh Chúa Giê Su yêu dấu cũng bị giật xuống khỏi bàn thờ . Rồi họ đập phá điên cuồng như những con quỷ khiến cho cửa kính bị vỡ hết, bàn học bị quăng ra ngoài, sách vở bị vứt ra ngoài đường, hàng cau bị gẫy gục, mái nhà trước bị đánh sập, các cột trụ hành lang bị cong và lộ lõi sắt ra ngoài
Chứng kiến cảnh tượng đó con vô cùng bất bình và sợ hãi, con cảm thấy mình thật nhỏ bé và yếu đuối trước thế lực sự dữ đang hoành hành. Con đã khóc nấc lên nhưng tiếng khóc ấy không có tác dụng gì với những người đại diện cho chính quyền xã Thủy Xuân Tiên, những con người đã không còn nhân tính. Quả thực, nỗi sợ hãi của họ đã sinh ra bạo lực vì họ nói với chúng con rằng: “ Nếu tao không dẹp được vụ này thì chúng tao sẽ bị cắt chức hết “. Sau đó họ rút về và để cho chung con yên, chúng con băng bó cho cô Tuyến rồi nghỉ ngơi một chút. Buổi sáng con đi học bình thường
Lúc 10 giờ 48 phút, con nhận được tinh báo Ba con bị đánh rất tàn nhẫn phải vào bệnh viện. Con thấy tim mình nghẹn lai vì Ba là điểm tựa duy nhất của con, con thấy trào dâng trong lòng mình tình thương dành cho Ba. Con nén cảm xúc để trở về căn nhà của mình… Nhưng than ôi ! Căn nhà đã không còn nữa, giờ chỉ là đống sắt vụ, nó đã bị đánh sập hoàn toàn, đồ đạc thì bị vứt ngổn ngang ra ngoài
Kể từ hôm đó chúng con sống trong cảnh vắng Ba, không nhà cửa, không có đến ngay cả những phương tiện cần thiết nhất cho sinh hoạt và học tập vì mọi thứ đã bị hư hỏng. Cũng có những người tốt đã giúp đỡ chúng con nhưng nỗi đau đớn của chúng con quá lớn. Chúng con vẫn không biết rồi mình sẽ sống ra sao ? Ngày mai sẽ như thế nào ? Cuộc sống của chúng con sẽ đi về đâu ? Thậm chí khi ra đường chúng con cũng phải sợ hãi vì họ luôn theo dõi và đe dọa chúng con. Những người lớn lo lắng chúng con sẽ bị bắt đi và bị ném đá.
Cái cách mà những cán bộ xã Thủy Xuân Tiên nhìn chúng con thể hiện rằng họ muốn chúng con biến mất khỏi thế giới này và họ sẽ không từ bất cứ một thủ đoạn nào, ngay cả cho đến bây giờ họ vẫn tiếp tục tháo dỡ và đập phá, họ để biển cấm chúng con bước vào khu đất của mình, ngày đêm họ canh giữ ở đó, họ mắc võng ở đó để ngủ.
Chúng con cũng không biết phải làm sao, chỉ mong các cô các chú và toàn thể anh chị em trong cộng đoàn giáo dân và những người thiện chí trên toàn thế giới hãy cầu nguyện cho Cha Giu-Se Nguyễn Văn Bình qua cơn hoạn nạn này và xin mọi người hãy trợ giúp chúng con
Và cuối thư con xin cầu nguyện cho các bác,các cô, các chú của chính quyền xã Thủy Xuân Tiên, mong các bác, các cô, các chú ăn năn sám hối về công việc của mình và xin Thiên Chúa rủ lòng thương xót chúng con
Amen
Kính thư !
Con : Nguyễn Huyền Anh
Nữ Vương Công Lý
số lần đọc: 1856
Sáng sớm ngày hôm nay 21/4/2012. Ngày thăm gặp của các phạm nhân ở trại giam B14. Mẹ của Pauslus Lê Văn Sơn đã qua đời tại quê nhà vì trọng bệnh.
Tang lễ được cử hành vào hồi 8 giờ sáng mai ngày 22-4-2012 tại quê nhà, cũng là quê nhà của Thánh tử đạo Lê Bảo Tịnh
Hiện nay Lê Văn Sơn vẫn bị giam tại trại giam B14 thuộc Bộ Công An từ hồi đầu tháng 8 năm ngoái, đến giờ chưa được một lần tiếp xúc với gia đình.
Mặc dù gia đình và bạn bè đã hết lòng chữa chạy nhiều nơi. Lần cuối cùng tưởng bà mẹ của Sơn đã đỡ bệnh, nhưng thực ra đó là đốm lửa bùng lên trước khi tắt hẳn. Có lẽ đợt phục hồi đó một phần là bà nghe tin có thể được gặp con.
Bà Maria Đỗ Thị Tần qua đời lúc chưa đầy 50 tuổi, cơn bệnh của bà bắt đầu phát khi nghe tin anh Lê Văn Sơn bị bắt bởi nhà nước CHXHCN Việt Nam với tội danh định lật đổ nhà nước CHXHCN này. Trong khi bà lâm bệnh, đã nhận được nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của đông đảo bà con xa gần, thế nhưng thật đáng tiêc bà đã mất khi tuổi đời không quá nhiều. Bà chỉ có duy nhất một con trai là anh Lê Văn Sơn. Chồng bà đã bỏ nhà đi từ hồi anh Sơn còn bé, đến nay không rõ nơi đâu. Mình bà đã nuôi nấng, dạy dỗ cho con trai ăn học trong một cuộc sống đầy khó khăn mà bà mưu sinh bằng nghề đi thu gom đồng nát rong.
Lúc lâm bệnh cũng chính là lúc con trai bị bắt đến nay, dù khó khăn, hiểm nghèo nhưng chưa lần nào bà tỏ ý tiếc nuối về hành động của con trai mình, anh Pauslus Lê Văn Sơn.
Xin chia sẻ nỗi đau quá lớn này đến gia đình bà và anh Lê Văn Sơn.
Nguoi Buon Gio
Đăng bởi admin lúc 12:07 Sáng 21/04/12
VRNs (21.04.2012) - California, USA - Ông bà ta đã bảo “lợn đã chẳng lành thì đừng làm cho nó què thêm ” nhưng mà chuyện không hay ho nội bộ này của Việt Nam lại được đem trình cả với quan chức Tầu mới là điều nhục nhã cho kế họach việc sửa đổi Hiến pháp 1992 hãy còn trong giai đọan thảo luận.
Tính đến ngày 18-04 (2012) , Ban Biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 của đảng CSVN đã họp 4 lần nhưng kết luận chung cuộc chưa xong, dù Quốc hội đã dự trù thảo luận Bản dự thảo vào cuối năm 2012, sau đó tổ chức lấy ý kiến tòan dân trong 2 tháng.
Vậy tại sao Thượng tướng Đỗ Bá Tỵ, ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đã phải “tâu” với Thượng tướng Trần Bỉnh Đức, ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, ủy viên Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng Quân Giải phóng nhân dân (GPND) Trung Quốc vào chiều ngày 16-04 (2012) rằng : “Việt Nam không chấp nhận chế độ đa nguyên, đa đảng; việc sửa đổi Hiến pháp sắp tới vẫn khẳng định sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng sản Việt Nam.” (Báo Quân đội Nhân dân, 16-04-2012).
Ai đã cho phép Tỵ làm việc này, Phùng Quang Thanh, Đại tướng, Bộ trưởng Quốc Phòng, chỉ huy trực tiếp của Tỵ hay đó là chỉ thị từ Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng muốn phiá Trung Cộng yên tâm rằng dù Hiến pháp có thay đổi thì đảng vẫn không đi ra ngòai đường lối một đảng cầm quyền như Trung Cộng ?
Không thấy tờ báo của Quân đội CSVN viết gì về thắc mắc sửa đổi Hiến pháp từ phiá Tầu nên không rõ tại sao Tỵ đã phải “giải trình” như thế, hay là Tỵ đã tự ý “vung ta qúa trán” để chứng minh cho Trần Bỉnh Đức biết đó là lập trường của Quân đội và cũng là chủ trương của đảng ?
Quân chiến đấu của CSVN có gần 5 triệu rưỡi người, kể cả Lực lượng trừ bị, Công an nhân dân và Dân phòng là chủ lực bảo vệ đảng và nhà nước nên vào ngày 27-03 (2012), với tư cách Bí thư Quân ủy Trung ương, Nguyễn Phú Trọng đã tuyên bố tại buổi làm việc với Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam rằng : “Quân đội là của nhân dân, vì nhân dân, là công cụ, chỗ dựa hết sức tin cậy của Đảng.”
Sau đó vào ngày 02/04 (2012) tại Tổng cục xây dựng lực lượng Công an Nhân dân , Trọng cũng nói : “Lực lượng Công an Nhân dân là lực lượng nòng cốt để giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, là thanh kiếm và lá chắn để bảo vệ chế độ, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ nhân dân.”
Ai cũng biết nếu không có hai lực lượng Quân đội và Công an bảo vệ thì đảng CSVN đã tan rã từ lâu vì điều được gọi là “liên hệ máu thịt” giữa nhân dân và đảng không còn nữa.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) ngày 31/12/2011 về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, phổ biến ngày 16/1 (2012) đã chứng minh như thế.
Nghị quyết thừa nhận : “Bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ.”
Nghị quyết còn tiết lộ : “ Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc…”
TỴ HỨA GÌ VỚI TẦU ?
Cũng tại buổi họp với Trần Bỉnh Đức trước khi về nước ngày 17/04 (2012), Tỵ còn cam kết : “Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng núi liền núi, sông liền sông. Mối tình hữu nghị Việt – Trung, tài sản vô giá do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Mao Trạch Đông sáng lập, được các thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước dày công vun đắp, đã ngày càng phát triển mạnh mẽ và gần đây đã được nâng lên thành quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện…Phát triển quan hệ hữu nghị láng giềng tốt đẹp và bền vững lâu dài với Trung Quốc luôn là chủ trương nhất quán và là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam”.
Bài tường thuật của Phóng viên Đình Xuân của báo Quân đội Nhân dân còn tiết lộ : “ Về vấn đề trên Biển Đông, hai bên nhất trí Quân đội phải là lực lượng gương mẫu đi đầu triển khai thực hiện nghiêm túc các Thỏa thuận giữa lãnh đạo cấp cao hai nước, trong đó có “Thỏa thuận về những nguyên tắc giải quyết vấn đề trên biển”. Hai bên lưu ý, cần cảnh giác không để các thế lực thù địch lợi dụng kích động chia rẽ mối quan hệ đoàn kết và lợi ích chiến lược lâu dài của hai nước Việt Nam và Trung Quốc, gây mất ổn định chính trị ở mỗi nước.”
Có 2 vấn đề trong tuyên bố chung này : (1) “Thỏa thuận về những nguyên tắc giải quyết vấn đề trên biển”. (2) “Không để các thế lực thù địch lợi dụng kích động chia rẽ mối quan hệ đoàn kết và lợi ích chiến lược lâu dài của hai nước Việt Nam và Trung Quốc.”
Thứ nhất, điều được gọi là “những nguyên tắc giải quyết vấn đề trên biển” là thỏa hiệp 6 điểm giữa Nguyễn Phú Trọng, và Hồ Cẩm Đào, Chủ tịch nước Trung Hoa đã ký ngày 11/10 (2011) tại Bắc Kinh, trong đó quan trọng nhất là vấn đề “hợp tác cùng phát triển” trên các vùng biển tranh chấp giữa hai nước ở Biển Đông mà Bắc Kinh gọi là Biển Nam Trung Quốc.
Ba điểm quan trọng như sau :
Điểm 2:” Trên tinh thần tôn trọng đầy đủ chứng cứ pháp lý và xem xét các yếu tố liên quan khác như lịch sử…, đồng thời chiếu cố đến quan ngại hợp lý của nhau, với thái độ xây dựng, cố gắng mở rộng nhận thức chung, thu hẹp bất đồng, không ngừng thúc đẩy tiến trình đàm phán. Căn cứ chế độ pháp lý và nguyên tắc được xác định bởi luật pháp quốc tế trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, nỗ lực tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được cho các vấn đề tranh chấp trên Biển.”
Điều 4:” Trong tiến trình tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài cho vấn đề trên biển, trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, đối xử bình đẳng, cùng có lợi, tích cực bàn bạc thảo luận về những giải pháp mang tính quá độ, tạm thời mà không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của hai bên, bao gồm việc tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển theo những nguyên tắc đã nêu tại điều 2 của Thỏa thuận này.”
Điểm 5: “ Giải quyết các vấn đề trên biển theo tinh thần tuần tự tiệm tiến, dễ trước khó sau. Vững bước thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này. Tích cực thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực ít nhạy cảm như bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm, cứu hộ cứu nạn trên biển, phòng chống, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai. Nỗ lực tăng cường tin cậy lẫn nhau để tạo điều kiện cho việc giải quyết các vấn đề khó khăn hơn.”
Chủ trương “hợp tác cùng phát triển” là lập trường của Đặng Tiểu Bình, nguyên Lãnh tụ Trung Cộng đã từng nói với Việt Nam và các nước khác, kể cả Nhật Bản, từ hai thập niên 70-80 rằng hãy “cùng phát triển vùng tranh chấp trước khi thảo luận vấn đề chủ quyền”. (theo hai Giáo sư Lee Lai To và Chen Shaofeng, Đại học Quốc gia Singapore).
Tuy nói như thế nhưng họ Đặng và những người kế vị sau này vẫn một mực cho rằng chủ quyền của Trung Cộng bao gồm cả quần đảo Trường Sa, sau khi họ đã chiếm Hòang Sa của Việt Nam Cộng Hòa tháng 01/1974.
Như vậy, sau khi khai thác hết tài nguyên ở Biển Đông, như “Nguyên tắc 6 điểm” mà Trọng đã ký với Hồ Cẩm Đào ở Bắc Kinh ngày 11 tháng 10 năm 2011 thì Việt Nam còn gì ?
Nhưng tại sao Trọng vẫn ký, và ngày 16/04 (2012), tại trụ sở Bộ Quốc phòng (Bắc Kinh) Đỗ Bá Tỵ cũng đã “cúi đầu” chịu “nhất trí Quân đội phải là lực lượng gương mẫu đi đầu triển khai thực hiện nghiêm túc các Thỏa thuận giữa lãnh đạo cấp cao hai nước, trong đó có “Thỏa thuận về những nguyên tắc giải quyết vấn đề trên biển” ?
Ngòai Tỵ, phái đòan Quân sự Việt Nam thăm Tầu từ 11 đến 17/4 (2012) còn có các “lãnh đạo chủ chốt của các Quân khu, Quân chủng, Bộ đội Biên phòng và một số cơ quan chức năng Bộ Quốc phòng”, theo Báo Quân đội Nhân dân ngày 13/04 (2012).
Báo của Bộ Quốc phòng Việt Nam cho biết Tỵ còn nói với Tập Cận Bình, Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Phó chủ tịch Quân ủy Trung ương, Phó chủ tịch nước CHND Trung Hoa vào ngày 13-04 (2012) rằng : “ Mục đích chuyến thăm Trung Quốc lần này của Đoàn là góp phần tăng cường hơn nữa nhận thức về chiến lược và sự tin cậy chính trị giữa hai Đảng, hai Nhà nước, nhân dân và Quân đội hai nước; đồng thời khẳng định quan hệ Việt-Trung là quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, theo phương châm 16 chữ và tinh thần 4 tốt.” (“láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt.)
Trong thực tế, Nhà nước Trung Cộng mà phiá Việt Nam vẫn phải tung hô “vừa là đồng chí, vừa là anh em” đã chứa dao găm trong bụng từ lâu. Họ vẫn tiếp tục đàn áp, sát hại, bắt người, cướp của các ngư dân Việt Nam đi đánh bắt ở hai vùng biển Hòang Sa và Trường Sa; Bắc Kinh vẫn đang hợp tác với các hãng dầu nước ngòai tìm kiếm dầu khí vùng Hòang Sa và tổ chức du lịch, nghiên cứu, xây dựng cơ sở, bến tầu, sân bay ở Hòang Sa.
Tại Trường Sa, quân Tầu vẫn chiếm đóng 8 đảo đá ngầm sau trận hải chiến với quân CSVN năm 1988. Có 64 lính CSVN chết trong trận này và từ đó, Tầu đã xây sân đáp máy bay trực thăng, dựng đầu cầu cho tầu cập bến và vẫn thường xuyên thao dượt quân sự trong khu vực mà Việt Nam không dám hé môi !
Thế mà Đỗ Bá Tỵ, vẫn có thể nói với Tập Cận Bình, người sẽ thay Hồ Cẩm Đào lãnh đạo Trung Cộng vào năm 2013 rằng : “Trên tinh thần vừa là đồng chí, vừa là anh em, QĐND Việt Nam luôn mong muốn đất nước Trung Quốc không ngừng phát triển lớn mạnh, Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc ngày càng hiện đại, đóng góp nhiều hơn cho hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới, trong đó có Việt Nam.”
ÂM MƯU TẬP CẬN BÌNH
Về phần mình, Tập Cận Bình đã nhắc khéo Đỗ Bá Tỵ : “ Quan hệ láng giềng là rất quan trọng, vì đã là láng giềng thì không thể thay đổi, phải ứng xử, quan hệ tốt với nhau mới sống chung ổn định lâu dài được. Chuyến thăm Trung Quốc của Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng rất thành công, kết quả chuyến thăm là cơ sở để hai nước triển khai thực hiện. Trung Quốc hết sức coi trọng phát triển quan hệ Trung-Việt, luôn quan tâm thúc đẩy các hoạt động tiếp xúc, giao lưu cấp cao, coi trọng hợp tác thực chất và tăng cường các hoạt động hợp tác giữa hai quân đội.”
Họ Tập cũng từng nói như thế với Nguyễn Phú Trọng trong chuyến thăm Việt Nam tháng 12/2011.
Những người theo dõi tình hình Việt-Trung cho rằng khi nói như thế là Tập Cận Bình muốn nhắc phía Việt Nam hãy nhớ đến cam kết của Thủ tướng Phạm Văn Đồng với Thủ tướng Chu Ân Lai năm 1958.
Trong Công hàm ký ngày 14 tháng 9 năm 1958, Phạm Văn Đồng đã nhìn nhận chủ quyền lãnh thổ của Trung Hoa bao gồm cả 2 quần đảo Hòang Sa và Trường Sa do Chu Ân Lai công bố ngày 04/09/1958.
Tài liệu chính thức của Hà Nội chứng minh nguyên văn Công hàm Phạm Văn Đồng như sau:
“Thưa Đồng chí Tổng lý,
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển. Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng”.
Ngày nay, phía Hà Nội lập luận rằng vào thời 1958 thì cả 2 quần đảo này thuộc quyền kiểm soát của chính phủ miền Nam Việt Nan, tức Việt Nam Cộng Hòa, nên Công hàm của Phạm Văn Đồng không có giá trị vì thực tế nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa của miền bắc lúc đó không làm chủ 2 quần đảo này.
Báo Đại Đòan Kết của Mặt trận Tổ quốc, lần đầu tiên vào ngày 27/07/2011 đã viết bài đã bác bỏ “suy luận” của Bắc Kinh.
Với tiêu đề “Công hàm 1958 với chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam”, bài viết có những đọan như sau :
“Trong Công hàm 1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng không hề đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vì điều đó là không cần thiết, bởi theo Hiệp định Genève 1954, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm phía Nam vĩ tuyến 17 tạm thời thuộc quyền quản lý của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH)…”
“…Trong thời điểm đó, dưới góc độ tài phán quốc tế, thì Chính phủ VNDCCH không có nghĩa vụ và quyền hạn hành xử chủ quyền tại hai quần đảo này theo luật pháp quốc tế. Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đương nhiên chỉ tán thành những tuyên bố của Trung Quốc có nội dung hợp pháp được cộng đồng quốc tế thừa nhận trên cơ sở luật pháp quốc tế cho đến giai đoạn đó. Một phần nội dung của bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền quốc gia về lãnh thổ của Việt Nam, đồng thời cũng vi phạm nghiêm trọng các cơ sở pháp lý về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà cộng đồng quốc tế đã thừa nhận cũng như đã nhiều lần tái thừa nhận một cách minh thị là thuộc chủ quyền của Việt Nam….”
“…Chính quyền VNCH, theo Hiệp định Genève 1954, đã liên tục thực thi chủ quyền lâu đời của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng các văn bản hành chính nhà nước cũng như bằng việc triển khai thực thi chủ quyền thực tế trên hai quần đảo này. Đỉnh cao của sự khẳng định chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong giai đoạn này là trận hải chiến quyết liệt của Hải quân VNCH chống lại sự xâm lược của tàu chiến và máy bay Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa năm 1974…”
Nhưng phiá Tầu lại không “lẩm cẩm” như Hà Nội vẫn nghĩ nên không muốn bàn đến vấn đề Hòang Sa vì nay đã nằm trong tay Bắc Kinh, trong khi phía Việt Nam lại không dám dung võ lực để đánh quân Tầu ra khỏi 8 đảo đá ngầm ở Trường Sa !
Trong khi Hà Nội chỉ biết giằng co với Bắc Kinh bằng nước bọt “xác nhận chủ quyền” ở Hòang Sa và Trường Sa thì Trung Cộng tiếp tục hành động lấn chiếm chủ quyền bằng cách dung võ lực tấn công các ngư dân Việt Nam; tăng cường kiểm soát biển đảo; nghiên cứu khoa học đáy biển; cắm cờ trên các đảo ngầm dưới đáy biển; và quyết liệt chống “quốc tế hóa” các tranh chấp trên biển với Việt Nam.
Từ mấy năm nay, cứ mỗi lần Hà Nội đề cập đến Hòang Sa thì Bắc Kinh lại trưng Công hàm Phạm Văn Đồng ra.
Thứ hai, khi Tỵ đơn phương cam kết với Lãnh đạo Tầu “Không để các thế lực thù địch lợi dụng kích động chia rẽ” hai nước khi họp với Trần Bỉnh Đức hay cũng hứa “Việt Nam luôn luôn cảnh giác với âm mưu phá hoại đoàn kết, gây chia rẽ hai nước Việt Nam và Trung Quốc của các thế lực thù địch” khi gặp Tập Cận Bình là Tỵ muốn đi theo vết giầy của Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Quốc phòng khi sang thăm Tầu trước đây, để bảo đảm vơi các lãnh đạo Tầu rằng phía Việt Nam sẽ không để cho áp lực chính trị và ngọai giao từ bất cứ nước thứ ba hay cá nhân nào ảnh hường đến mối liên lạc ngọai giao và cam kết của Việt Nam với Bắc Kinh.
Nhưng vấn đề không phải là chỉ biết “phục vụ” cho quyền lợi của Trung Cộng mà phải biết đặt quyền lợi của Tổ quốc và dân tộc Việt Nam ở chỗ nào trong cuộc đấu tranh chủ quyền với lãnh đạo phương Bắc, những người lúc nào cũng chỉ muốn ăn tươi nuốt sống nước Việt Nam.
Như vậy thì khi Đỗ Bá Tỵ “báo cáo” với Trần Bỉnh Đức việc Việt Nam không chấp nhận “chế độ đa nguyên, đa đảng” và khẳng định sẽ tiếp tục “ sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng sản Việt Nam” trong Hiến pháp sửa đổi thì được “trả công” cho mấy thước vuông của hình Lưỡi Bò bao gồm cả Hòang Sa và Trường Sa của Việt Nam mà Bắc Kinh gọi là Đường 9 Đoạn, trong bản đồ mới của họ sắp công bố ở Biển Đông ?
Hay là Tỵ cũng chỉ muốn bắc loa qủang cáo cho bài viết của Hồng Hải cho rằng : “Những ý kiến “khuyên” nhân dân Việt Nam nên xây dựng nhà nước “tam quyền phân lập” thực chất là kích động tư tưởng đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; xóa bỏ vai trò Đảng lãnh đạo Nhà nước đã được xác định tại Điều 4 của Hiến pháp năm 1992. (Báo Quân đội Nhân dân, ngày 27/02/2012)
Nhưng không phải chỉ có phe quân đội có súng muốn đảng “đã được thì phải ăn cả” mà ngay cả cái Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 do Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đứng đầu cũng đã khẳng định trong phiên họp ngày 13/03 (2012) rằng Hiến pháp mới phải : “ Tiếp tục khẳng định sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội…Đồng thời sửa đổi Hiến pháp 1992 cũng nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa…”
Như vậy thì có khác gì chưa sửa đâu ?
Nếu “sửa” mà chỉ làm cho Hiến pháp 1992 cũ thêm, lạc hậu hơn và tiếp tục phủ nhận quyền làm chủ đất nước của người dân gấp trăm vạn lần hơn thì tốt hơn là hãy dừng lại, đừng làm cho con lợn đã què một chân thành què cả hai thì may ra còn tránh được tội sát sinh.
Chẳng may mà chuyện sửa Hiến pháp lại cũng có bàn tay Tầu nhúng vào như cung cách “báo cáo” của Đỗ Bá Tỵ thì những người trong Ban Biên tập dự thảo sẽ phải trả giá với lịch sử bằng hình phạt nào ?
Phạm Trần
(04/012)
Đăng bởi admin lúc 2:35 Sáng 21/04/12
VRNs (21.04.2012) – Sài Gòn – “Chúng tôi đòi hỏi quý vị lập tức xem lại sự thật về tình trạng chính xác của các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, và vùng Biển Đông Nam Á (Biển Nam Trung Hoa). Theo đó, chúng tôi yêu cầu quý vị thay đổi ghi chú và tên của các quần đảo và gỡ bỏ Đường Chín Đoạn trên các bản đồ của vùng biển này mà Google Maps đang phổ biến, nhằm phản ánh chính xác tư thế của 600 triệu dân Đông Nam Á và cộng đồng quốc tế cũng như chính sách trung lập của công ty Google”. Là điều mà mọi công dân trong vùng Đông Nam Á nên ký tên ủng hộ và gởi tới Ban lãnh đạo của Google: Eric E. Schmidt, Chủ tịch điều hành Google Inc, Larry Page, Giám đốc điều hành Google Inc, Sergey Brin, Sáng lập viên Google Inc, Marissa Mayer, Phó Giám Đốc Google Inc. – Ban Bản đồ và Địa phương.
Đây là đề xuất của Nguyễn Thái Học Foundation – NTHF (Nam Cali, USA) phổ biến trên website của tổ chức này ngày 10.04.2012 vừa qua.
Lý do thúc đẩy NTHF đưa ra là vì sự thật, phần các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và đường lưỡi bò không phải của Trung Quốc, mà của 600 triệu dân vùng Đông Nam Á.
NTHF viết: “Sự thật là các quốc gia Đông Nam Á và cộng đồng quốc tế chưa bao giờ công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Sụ thật là cho đến nay, Liên Hiệp Quốc vẫn phân loại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là các “vùng đảo tranh chấp” và chưa bao giờ xác nhận chủ quyền của Trung Quốc trên các quần đảo này.
Sự thật là các nước Đông Nam Á cùng với 600 triệu dân của họ và Liên Hiệp Quốc chưa bao giờ công nhận bản đồ với “Đường Chín Đoạn” của Trung-Quốc. Những bản đồ này chỉ đơn thuần nói lên chính sách bành trướng bá quyền của Đảng và nhà nước Trung Quốc”.
Từ sự thật đó, NTHF kêu gọi mọi người đặt vấn đề nghiêm túc với Ban điều hành Google với những yêu cầu cụ thể:
“1) Trên Google Maps, khi truy cập chữ “Hoàng Sa” và “Trường Sa” thì Google Maps hiển thị dòng chữ “Hoàng Sa, Trung Quốc” (“Paracel Islands, China”) và “Trường Sa, Trung Quốc” (“Spratly Islands, China”), ngụ ý rõ ràng rằng các quần đảo này thuộc về Trung Quốc mặc dù chúng không phải.
2) Trên Chinese Google Maps, khi truy cập các tên “Biển Nam Trung Hoa” (“South China Sea”) và “Hoàng Sa” (“Paracel Islands”) bằng tiếng Anh hoặc tiếng Trung Quốc thì công cụ này hiển thị một “Đường Chín Đoạn” bao trùm hầu như toàn bộ biển Đông Nam Á. Tuy nhiên khi truy cập các tên đó trên US Google Maps thì nó không hiển thị như vậy”.
NTHF ý thức đây không phải là hành động cá nhân của một tổ chức, mà cần là hành động của mỗi công dân và nhiều tổ chức xã hội ở các quốc gia thuộc Đông Nam Á.
NTHF viết trong thông cáo báo chí kêu gọi mọi người ủng hộ như sau: “Chúng ta phải lên tiếng.
Nếu không lên tiếng thì lịch sử giả sẽ thành lịch sử thật. Nếu không lên tiếng thì chúng ta và Đông Nam Á sẽ mất mát nhiều hơn những gì mà mọi người có thể tưởng tượng được. Chúng ta cần 10.000 chữ ký hoặc nhiều hơn để yêu cầu Google phải sửa đổi lại thông tin trên Google Maps để phản ảnh chính xác lịch sử và tình trạng thực tế của Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông Nam Á. Một cách gián tiếp, mục đích của chiến dịch này cũng nhằm tố cáo hành vi xâm lược của Trung cộng trước dư luận quốc tế đồng thời cổ vũ sự đoàn kết của ASEAN trước âm mưu chia rẽ và hành vi dọa nạt của một chính quyền giả dối, tham lam và man rợ”.
Quý vị có thể click vào đây để ký tên vào kiến nghị.
PV.VRNs tổng hợp
Một ngày tang thương cho dân tộc Việt Nam mà đại đa số người dân không bao giờ muốn có. Giờ phút kinh hoàng của biết bao gia đình có những người thân phải chết, cửa nhà nát tan, ly tán tứ phương, máu và nước mắt. Tiếp đến là những đợt khủng bố như bóng đêm bao trùm cả Miền Nam VN, mọi người ngơ ngác, bữa cơm thiếu chất dinh dưỡng dần dần. Đói!
csVN tiếp tục trả thù hàng triệu người bằng cách lập ra khoảng 150 trại tù tập trung ở những nơi rừng thiêng nước độc, biến họ trở thành lớp dân nô lệ kiểu mới , vắt kiệt sức của họ. Hơn 1 triệu người tù nhân này họ là ai? Thưa họ là người Việt Nam, trong đó có khoảng 155 ngàn người đả gục ngã trong tù, vĩnh biệt cõi đời với lòng uất hận.
Con số tương tự lại bỏ nước ra đi, họ sợ cộng sản hơn sợ chết. XHCN là thiên đường gì mà làm con người ta ghê tởm như vậy.
Số dân oan vì bị cướp đất mỗi ngày mỗi tăng theo cấp số nhân. Công an cộng sản càng ngày càng hung hăng, tự tiện bắt bớ và đánh chết dân. Ôi! lời ai oan của bao người dân Việt, đôi khi chẳng còn nước mắt, hay trong đêm dài khuya khoắt chỉ còn tiếng nấc nghẹn thê lương.
Ghi nhớ và tưởng niệm không phải chỉ là việc than oán xuông, nhưng lấy nó làm chất xúc tác mở ra một cánh cửa mới, hy vọng mới, vận hội mới cho dân tộc Việt Nam, chưa bao giờ csVN bị mất uy tín trên trường quốc tế như lúc này. Hoa Lài đã nở rộ khắp nơi, cũng sẽ nở tại Việt Nam.
Kính mời quý vị tham dự buổi:
Tưởng Niệm Quốc Hận 30tháng 4.
Diễn Đàn Chính Trị Tranh Luận Dân Chủ
Việt Nam : Ngày 30 tháng 4
Lúc: 00 giờ Thứ Hai ( 24 giờ đêm Chủ Nhật)
Hoa Kỳ: Ngày 29-4-2012
Lúc: 12 giờ trưa Houston , 1 giờ chiều New York , 10 sáng California. Chủ Nhật.
Thay mặt BĐH kính mời
CaliGuy