Saturday, January 26, 2013

Chuyện kể: Một buổi trên đường vượt biển

Chuyện kể rằng:
"Một buổi trên đường vượt biển
chuyến ghe em bị đánh cướp hai lần
chúng ăn hiếp mẹ
ba giận
xông vào đánh trả
chúng lồng lên
vung mã tấu
chém thẳng tay !
ba quị ngã
máu chảy đầy ra đó !
mẹ khóc gào
còn em sợ
nín lặng... mắt mở to !!
Chúng phá nát chiếc ghe bé nhỏ
rồi bỏ đi sau khi đắc thắng cười
Mẹ khóc, ôm xác ba nóng hổi
Em rẩy run, nức nở, kinh hoàng
Em nhìn ba nằm đó, ngỡ ngàng
sao ba lại bỏ em với mẹ ?

Rồi bão tố lớn ơi là lớn
Sóng thật cao
Gió mạnh biết là bao
Sóng xua ngang
Ghe vỡ tan tành
Người ta khóc và em cũng khóc
Mẹ ôm lấy một thùng nhựa rỗng
em ôm ghì trên vai mẹ lạnh run
trôi lênh đênh trên sóng biển chập chùng
Em sợ
Mẹ nói : Con yêu đừng khóc !
Có mẹ đây, mẹ thương con lắm !
Mẹ con mình sẽ sống mà con
Ráng lên con, bão tố chẳng còn
bám vai mẹ đừng buông ra nhé !!

Một ngày sau, mẹ em mệt lả
máu của người ướt cả áo em
chiếc thùng con không đủ sức rồi
nó chìm xuống dần dần, sợ quá
Mẹ thì thào bên em thật khẽ
Mẹ buông tay, con bám chặt thùng đây
Mẹ với ba có lỗi ở kiếp này
không nuôi nấng cho con khôn lớn
Con phải sống, phải ngoan con nhé
Mẹ mệt rồi, mẹ đi tìm ba
Chưa dứt câu tay mẹ đã buông ra
Em khóc nấc: Mẹ ơi trở lại !
đừng bỏ con, con sợ quá mẹ ơi !
Mẹ cứ trôi,
Mẹ chẳng trả lời
Em nhìn mẹ mà òa lên khóc

Một chiếc ghe đánh cá
Vớt được xác mẹ em
Khi trời sắp về đêm
Em được ghe đó vớt
Em ngồi bên cạnh mẹ
Mắt mẹ nhắm chặt rồi
Em sờ lấy đôi môi
Đôi môi không cười nữa
Họ đem mẹ đi đốt
Khói bay ngùn ngụt trời
Họ bảo: "Mẹ lìa đời,
về cõi thần tiên ở"

Từ đó,
những khi em trở mình cảm sốt
nhớ làm sao bóng dáng mẹ hiền
Mơ mẹ em là một cô tiên
vuốt mái tóc, ru em ngoan ngủ
Từ đó,
em không còn cả ba và mẹ
nhìn bạn bè mà thèm lắm thầy ơi !
có nhiều đêm em hỏi ông trời
Mẹ trên đó có nhớ em không hở ??
Thầy cho em tạm dừng, dang dở
Nhớ mẹ rồi, em đang khóc thầy ơi !
từ hôm nay và suốt cuộc đời
em sẽ chẳng còn ba mẹ nữa..... !

CALI
Tôi đã khóc khi viết bài văn này tại trại tịnạn

http://batkhuat.net/van-motbuoi-trenduong-vuotbien.htm

CÔ CON GÁI QUÁ GIANG TRONG ĐÊM MỒNG MỘT TẾT

Phamtinanninh
Chiếc thuyền nhỏ mang theo hơn năm mươi người, một nửa là đàn bà và con nít, ra khơi hai ngày thì gặp bão. Chúng tôi may mắn được một chiếc tàu chuyên chở dầu hỏa của Nauy trên đường từ Nhật sang Singapore cứu vớt. Hai ngày sống trên tàu chúng tôi có cảm giác như đang ở trên một thiên đàng. Tất cả đều được tận tình hỏi han chăm sóc. Chúng tôi cảm thấy vừa mừng vừa xót xa khi nhận ra thế gian này vẫn còn có đầy ấp tình người.
Họ là những kẻ xa lạ, không cùng màu da, màu tóc, không cùng ngôn ngữ, mà lòng thông cảm yêu thương họ đã dành cho chúng tôi lớn lao biết đến dường nào. Trong lúc những “người anh em” cùng một nhà thì lại hành hạ đuổi xô chúng tôi đến bước đường cùng để phải đành lòng bỏ nước mà đi. Với ân tình đó chúng tôi chọn Vương quốc Nauy là quê hương thứ hai để gởi gấm phần đời còn lại của mình và vun đắp tương lai cho mấy đứa con nhỏ dại.
Sau gần một năm ở trại tị nạn, gia đình chúng tôi được đi định cư. Khi bầu đoàn thê tử như một bầy nai vàng ngơ ngác bước xuống phi trường Oslo, được nhiều người đón tiếp, trong đó lại có cả mấy ông nhà báo và đài truyền hình nhà nước phỏng vấn, quay phim. Gốc nhà quê, nên tôi cũng chẳng biết họ quay phim để làm cái gì. Trước khi về nhà, chúng tôi còn được mời vào một nhà hàng Tàu, và tha hồ gọi bất cứ thức ăn nào mình thích.
Đến khi bước vào ngôi nhà, được bà trưởng phòng xã hội trao cho một chùm chìa khóa, dẫn đi một vòng xem phòng ốc đã được trang trí xong nội thất, cái bếp và cả cái tủ lạnh có sẵn đầy đủ thức ăn nước uống, một cái TV màu. Mọi thứ đều mới tinh. Sáu đứa con và hai đứa cháu họ của tôi thì ngồi mân mê mấy cái bàn học, và mấy cái ba lô có đầy đủ sách vở trong đó. Trước khi ra về bà giới thiệu chúng tôi một cô nhân viên của bà, và một cô giáo ở lại hướng dẫn chúng tôi xử dụng mọi thứ tiện nghi trong nhà, và mỗi ngày sẽ đến đưa gia đình chúng tôi đi mua sắm, khám bệnh, làm răng, còn cô giáo thì đặc trách lo việc học hành cho mấy đứa nhỏ. Khi tất cả ra về, tôi nằm dài dưới sàn nhà và chợt khám phá ra rằng mình quả là may mắn được đến định cư ở một nước Bắc Âu xa lạ nhưng thơ mộng và có quá rộng tấm lòng này, mà lúc xuống biển ra đi chắc chẳng có ai bao giờ nghĩ tới.
Buổi tối, cơm nước xong, cả nhà quây quần trước cái TV. Thằng con trai lớn ra điều mới học được văn minh, bấm tới bấm lui tìm đài. Cả đám bất ngờ nhìn thấy dung nhan của mình trên màn ảnh. Thì ra chương trình phóng sự. Họ đang kể về gia đình chúng tôi: “những công dân mới của Nauy, mà ông bố đã từng ở tù nhiều năm, giống nhiều người Nauy bị nhốt trong các trại cải tạo của Đức quốc xã, cái thời Hitler làm mưa làm gió ở Âu châu, và đã can đảm dắt theo sáu đứa con và hai đứa cháu nhỏ vượt đại dương trên một chiếc thuyền đánh cá mong manh”. Nghe họ ca ngợi mình mà tôi xấu hổ. Dù gì tôi cũng là kẻ bỏ nước tha phương, với họ, ít nhiều gì cũng là một cành tầm gởi. Còn chuyện vượt biển, vượt biên, đến bước đường cùng thì ai cũng phải liều mạng thế thôi, chứ có hàng triệu người còn can đảm gấp vạn lần tôi. Nhiều người đi bằng đường bộ, trèo núi, băng rừng, lội suối, bơi sông, qua Cam Bốt, Thái Lan, để vài năm sau mới đến được Singapore. Và dĩ nhiên đã có biết bao nhiêu người chẳng bao giờ tới bến.
Cũng vì cái chương trình phóng sự bất ngờ này, mà sau đó, mỗi ngày gia đình chúng tôi phải tiếp nhiều người khách không mời, và nhận đủ thứ quà. Trong số đó, đặc biệt có một người đàn bà Việt Nam, mà lúc bà mới bước vào nhà, chúng tôi cứ tưởng là người Nhật, hay là người Tàu gì đó, khi nhìn thấy cái vẻ quí phái đặc biệt của bà. Tôi nghĩ có lẽ không có người Việt Nam nào sống ở cái xứ Bắc Âu xa lạ này từ lâu để có được nét đẹp của một người con gái đông phương pha lẫn âu tây ở cái tuổi còn trẻ như bà. Sau đó tôi bất ngờ thú vị khi bà tự giới thiệu tên là Huyền-Trân Thomassen, hiện là giảng sư môn nhân chủng xã hội học tại trường đại học Oslo, chồng bà là người Nauy, hiện đang làm đại sứ tại Mexico. Bà không muốn bỏ nghề bà yêu thích, hơn nữa bà vẫn còn tiếp tục nghiên cứu về ngành này, nên không theo chồng mà ở lại Nauy với hai đứa con. Lúc nhỏ bà theo cha sang sống ở Thụy Sĩ, khi cha bà là đại sứ của VNCH tại đó. Người chồng của bà, cũng thuộc một gia đình có truyền thống ngoại giao. Cha của ông cũng một thời là đại sứ của Nauy tại Thụy Sĩ. Hai người con của hai ông đại sứ quen nhau từ khi học chung một trường trung học và làm đám cưới sau khi tốt nghiệp đại học tại thủ đô Bern, một năm trước khi miền Nam Việt Nam thất thủ.
Tôi rất ngưỡng mộ người đàn bà trẻ này. Rời Việt nam từ lúc 12 tuổi, nhưng bà nói tiếng Việt rất lưu loát, hiểu biết rất nhiều về văn học Việt nam, từ truyện Kiều của Nguyễn Du, đến bài thơ Hai Sắc Hoa TyGôn của TTKH. Điều đặc biệt hơn hết là bà rất quí mến và giúp đỡ tận tình người đồng hương. Gia đình tôi cũng mang nặng khá nhiều ơn nghĩa của bà.
Những ngày sống hạnh phúc ở quê người, nhìn con cái ngày một lớn lên và đang có cả một bầu trời xanh bao la trước mặt, lúc nào tôi cũng chạnh lòng nhớ lại cái thời mình khốn khó và những bạn bè xưa. Tôi thấy mình nợ nần nhiều người mà không biết làm sao trả được. Trong số này, người mà tôi thường nghĩ tới nhiều nhất và ân hận chẳng giúp được điều gì là Nguyễn Thượng Tâm, người đồng đội và cũng là đứa em kết nghĩa của tôi.
* * *
Tâm ra trường sau tết Mậu Thân. Về trình diện đơn vị tôi khi vừa tròn 18 tuổi. Mặc dù còn rất trẻ, nhưng được đào tạo từ lúc còn nhỏ tại trường Thiếu Sinh Quân nổi tiếng ở Vũng Tàu nên Tâm là một hạ sĩ quan gương mẫu trong kỷ luật và gan dạ trong chiến trường. Tâm hiền lành và rất ít nói. Nhưng không phải vì vậy mà tôi trở thành thân thiết với Tâm và hai thằng kết nghĩa anh em, nếu không có buổi sáng mồng một Tết năm 1969, khi đơn vị chúng tôi tạm dừng quân trong một ngôi làng hoang đổ nát nằm sâu giữa những động cát nơi giáp ranh hai tỉnh Bình Thuận và Bình Tuy lúc trước.
Dù đang hành quân, nhưng biết hôm đó là mồng một Tết, tôi thức dậy thật sớm, thay bộ đồ trận mới, đi một vòng chúc tết anh em. Ngày đầu năm, nằm giữa một khu hoang tàn không một bóng người, chắc ai cũng chạnh lòng nhớ tới gia đình. Chiếc radio từ một căn lều poncho nào đó đang phát ra tiếng hát nỉ non của ca sĩ Duy Khánh, trong bản nhạc Xuân Này Con Không Về của Trịnh Lâm Ngân, làm lòng tôi càng thêm lắng xuống. Đến cuối ngôi làng, tôi bỗng giật mình khi nghe tiếng sụt sùi. Lại gần tôi mới nhận ra Tâm. Anh ta đang quì lạy trước một cái bàn thờ được kê bằng cánh cửa sổ của căn nhà nào sập xuống. Trên bàn thờ dã chiến, tôi thấy có mấy cái hoa rừng cấm trong cái bi đông nước, hai bát cơm bằng gạo sấy và một lon guigoz có lẽ chứa nước trà hay canh nấu bằng lá giang hay lá tàu bay gì đó. Tâm khấn vái một lúc, quay lại bất ngờ nhận ra tôi. Tâm đưa tay chào và cũng như mọi khi, không nói một lời nào. Có lẽ Tâm biết là tôi đã đứng im lặng ở đây từ lâu lắm. Tôi bước tới nắm chặt tay Tâm, kéo anh đứng lên. Tâm vội rút tay ra lau nước mắt. Tôi đến trước bàn thờ vái một vái, rồi vỗ vai Tâm:
- Em cúng bố mẹ à. Sao đầu năm mà buồn quá vậy em.
- Không, bố em còn ở ngoài Bắc, em không biết là còn sống hay đã chết. Mẹ em thì đã qua đời lúc em còn bé lắm. Nhà em ở tận Ý Yên, nhưng bố em đi làm xa, nên phải gởi hai anh em em xuống nhà ông chú ở Hà Nội học, rồi theo gia đình chú ấy xuống tàu há mồm vào Nam luôn.
- Còn anh của em bây giờ ở đâu? Tôi hỏi
- Anh ấy chết rồi. Anh là sĩ quan thủy quân lục chiến, tử trận đúng ngày mồng một tết Mậu Thân ở ngay Sài gòn. Hôm nay là giổ đầu của anh ấy.
- Anh em tên gì?
- Nguyễn thượng Minh, khi chết anh vừa mới lên trung úy.
Tôi giật mình. Cái tên Nguyễn thượng Minh làm tôi nhớ ngay đến một thằng bạn cùng tên hồi còn tiểu học. Tôi hỏi Tâm:
- Vậy có phải em là cháu của thầy giáo Nguyễn Thượng Cầu?
- Dạ phải, nhưng chú Cầu đã chết lâu rồi. Tâm trả lời rồi nhìn tôi ngạc nhiên.
Năm 1954, tôi đang học lớp nhì trường huyện Vạn Ninh. Nhập học được vài tháng, thì thầy hiệu trưởng Nguyễn công Tố dắt ba đứa học trò lạ vào lớp giới thiệu với cô giáo Kiệt rồi dặn dò đám học trò chúng tôi:
- Hôm nay trường nhận thêm những em học trò mới, trong đó có ba em vào lớp này. Tất cả các em phải biết yêu thương và giúp đỡ những người bạn này, vì họ đã vừa phải bỏ quê hương, gia đình ngoài miền Bắc, di cư vào đây. Đó cũng là lời kêu gọi của Ngô Thủ Tướng.
Hai thằng con trai và một đứa con gái cúi đầu chào cô giáo rồi quay xuống chào chúng tôi bằng thứ tiếng lạ hoắc khó nghe. Thằng lớn con nhất được cô Kiệt chỉ cho ngồi dãy bàn cuối lớp, ngay phía sau tôi.
Đến giờ ra chơi, bọn tôi bu quanh “phỏng vấn” nó đủ điều. Tên nó là Nguyễn Thượng Minh. Nó và thằng em nhỏ hơn bốn tuổi, nhà ở quê, mẹ chết sớm, ông bố đi làm xa, nên phải gởi anh em nó xuống Hà Nội ở nhà ông chú để học hành, hơn nữa ông lại là thầy giáo. Khi có lệnh di cư, ông chú không liên lạc được bố nó, nên dắt hai anh em nó xuống tàu há mồm vào Nam luôn, rồi được chính quyền phân phối đến định cư ở quê tôi, Vạn Giã, cùng với hơn mười gia đình khác. Nó bảo vài hôm nữa ông chú nó cũng sẽ được sắp xếp cho vào dạy lớp ba trường này, thay cho một ông thầy thuyên chuyển đi nơi khác.
Nó lầm lì ít nói, chắc ngại cái tiếng Bắc Kỳ xa lạ của nó. Nhưng không phải vì điều đó mà làm cho tôi ghét nó, và đã có nhiều lần đánh lộn với nó nữa. Lý do chính là nó đánh bi rất giỏi, giành mất giải quán quân của tôi trong lớp. Nó đánh bi khác với chúng tôi. Chúng tôi để viên bi lên đầu ngón tay giữa rồi bắn đi, còn nó đặt viên bi trong lòng bàn tay và bắn đi bằng ngón tay cái. Vậy mà nó ăn tôi sạch túi. Bọn tôi bảo là nó ăn gian, không được chơi kiểu bắc kỳ của nó mà phải chơi theo kiểu trung kỳ của bọn tôi. Nhập gia phải tùy tục. Nó cô đơn một mình nên chịu thua, phải trả lại cho tôi tất cả viên bi nó thắng ngày hôm đó. Vậy mà hai hôm sau nó chơi trở lại, dĩ nhiên với cái kiểu hoàn toàn mới lạ với nó, nhưng nó vẫn thắng tôi oanh liệt. Cuộc đấu bi này bây giờ không phải chỉ giữa cá nhân hai thằng: tôi với nó, mà giữa hai miền nam-bắc, cho nên học trò trai gái cả trường bu quanh làm khán giả. Tôi thua trắng tay, mất luôn chức vô địch từ lớp năm đến bây giờ. Dĩ nhiên là tôi ức lắm. Điều ghê gớm hơn nữa, là chỉ có cuối tháng đầu tiên nó đứng hạng ba trong lớp, lên nhận bảng danh dự sau tôi, nhưng kể từ tháng thứ nhì trở đi nó đều chiếm hạng nhất. Tôi đâm ra hận nó, có nó là tôi mất tất cả. Mấy lần tôi nhại tiếng Bắc chọc quê nó, nó cũng chỉ cười, tôi nghe lời xúi của lũ bạn, bảo nó rờ sau “đít” coi có còn tòn ten cọng rau muống nào không, nó chỉ im lặng. Có lần bọn tôi xô nó ngã, nó chỉ cười, đứng dậy rồi phủi bụi trên áo quần. Tôi thua nó, nhưng cố làm ra vẻ tự mãn: “nó vẫn chỉ là một anh hùng cô đơn, không có ai chơi với nó”.
Đùng một cái nó nghỉ học. Chẳng có ai biết lý do. Nhưng rồi vài ngày sau nó tới trường, nhưng không phải để học mà để bán bánh mì và cà rem. Cô giáo và bạn bè hỏi, nó khóc và bảo là bà thím, sau khi cãi vã với chú nó một trận, không nuôi hai anh em nó nữa, nó phải tự “khắc phục” để còn nuôi một thằng em nhỏ. Hôm đó bọn tôi nhiều thằng cũng khóc theo với nó. Chờ cho tất cả vào lớp, tôi ở nán lại chỉ để ôm nó và nói một lời xin lỗi về những điều đã qua. Nó nhìn tôi thân thiện, và bảo là nó chưa hề để tâm tới điều ấy. Tôi “tâm phục khẩu phục” nó. Nó còn nhỏ mà thông minh và thánh thiện hơn tôi nhiều.
Tôi bèn làm ngay một cuộc “quảng cáo” cho bánh mì và cà rem của nó, vì vậy hôm nào nó mang mọi thứ tới trường là bán sạch ngay trong giờ ra chơi buổi sáng. Sau đó tôi còn kêu gọi một cuộc lạc quyên giúp nó: gạo, tiền xu, tiền cắc, áo quần, có thằng còn mang tới cho nó cả buồng chuối và một trái mít nữa.
Rồi nó cũng được chính quyền giúp đỡ, tôi nghĩ như thế, nên vài tuần sau nó trở lại lớp học, và chỉ bán bánh mì trong giờ ra chơi. Nó vẫn học giỏi, vẫn đứng đầu lớp, nhưng lần này nó không còn là anh hùng cô đơn nữa mà nó có đông đảo bạn bè, mà thằng thân nhất chính là tôi.
Ông chú nó, thầy giáo Nguyễn thượng Cầu, cũng đã vào trường dạy lớp ba, nhưng bây giờ anh em nó không còn ở chung với ông chú nữa, mà chỉ đến thăm ông vào những cuối tuần. Có khi nó dắt tôi đi theo. Vì vậy tôi mới bíết ông thầy, chú nó sợ bà vợ Bắc kỳ còn hơn sư tử, nên chẳng dám bênh vực nhiều anh em nó, mặc dù ông rất đau lòng xót xa khi bọn nó phải dọn ra ở ké nhà một gia đình người di cư khác.
Tôi mất mẹ, cha tôi cũng đi làm xa, nên tôi thông cảm hoàn cảnh của Minh, nên thường đưa anh em nó về nhà ông bà nội tôi và chơi với đám anh em họ hàng của tôi.
Khi xong tiểu học, tôi vào Nha Trang học trung học, cũng là lúc phải chia tay nó. Bởi Minh cũng vừa theo một số người di cư vào tận khu định cư Phước Tỉnh nào đó ở trong nam, người ta bảo trong ấy làm ăn khấm khá hơn ở quê tôi nhiều lắm. Từ đó, tôi không gặp lại nó, mặc dù trong ký ức tuổi ấu thơ của tôi, lúc nào hình ảnh nó cũng in lên đậm nét.
Không ngờ hôm nay, giữa chiến trường xa xôi này tôi lại bất ngờ gặp lại thằng em duy nhất của Minh, và lòng tôi lắng xuồng khi biết nó cũng từng là lính đánh giặc và đã hy sinh đúng ngày này năm trước: ngày mồng một Tết. Cái ngày mà lời chúc Tết của ông Hồ Chí Minh trên đài phát thanh Hà Nội chính là cái mật lệnh “Tổng Công Kích Tết Mậu Thân” để giết hại bao nhiêu người vô tội, đặc biệt hàng vạn người ở Huế bị chôn sống. Cũng là cái ngày người ta nhận diện được bọn trí thức, sinh viên phản trắc, đã giết hại bao nhiêu thầy, bạn của chính mình.
Sau đó, tôi rút Tâm về làm việc bên cạnh tôi, phụ tránh toán quân báo gồm toàn những người lính trẻ. Chúng tôi yêu thương nhau như anh em. Rồi vào một đêm trăng sáng, dưới sự chứng giám của đất trời, tôi đã nhận Tâm là đứa em kết nghĩa, sau lần Tâm liều mình cứu tôi thoát chết trong một cuộc phục kích ở Thiện Giáo. Đổi lấy sự an toàn cho tôi, Tâm phải mất hai ngón tay của bàn tay trái và nằm bệnh viện hơn một tháng để được giải phẩu lấy một mãnh đạn nằm trong sâu trong thanh quản. Sau khi xuất viện, Tâm phát âm tương đối khó khăn. Được hội đồng giám định y khoa xếp vào loại không còn khả năng chiến đấu, Tâm có thể chọn về một đơn vị hành chánh hay tiếp vận nào mà Tâm thích, nhưng Tâm một mực chối từ và nằng nặc đòi trở lại đơn vị cũ. Tâm xác nhận là mình vẫn còn khả năng chiến đấu, hai ngón tay của bàn tay trái và giọng nói khó khăn một chút không gây trở ngại nhiều cho một người lính chiến trường. Cuối cùng Tâm được toại nguyện.
Tôi vừa vui mừng vừa cảm động khi Tâm trở về trình diện. Tâm bảo sống chết gì em cũng muốn ở bên anh. Vì gia đình em có còn ai nữa đâu. Đơn vị này là gia đình của em. Tôi sắp xếp cho Tâm một công việc tạm thời ở hậu cứ để tiếp tục chửa bệnh. Chỉ sau vài tháng giọng nói của Tâm gần trở lại bình thường. Tâm nghe lời tôi xin vào khóa Sĩ Quan Đặc Biệt ở Thủ Đức. Tâm được ưu tiên thu nhận vì gốc TSQ.
Ra trường đúng vào mùa hè đỏ lửa 1972, Tâm lại xin trở về đơn vị cũ, lúc này đang ngày đêm nằm trong lửa đạn ở mặt trận Kontum. Năm tháng sau, tôi bị thương, được tản thương về Quân y viện Pleiku nằm điều trị gần một tháng. Xuất viện, được điều về Phòng Hành Quân. Cả tháng tôi không gặp lại Tâm, nhưng ngày nào chúng tôi cũng liên lạc trên hệ thống vô tuyến.
Cuối năm 1973, chiến trường lắng dịu. Tâm xin phép về Sài gòn cưới vợ. Vợ Tâm là cô bạn nhỏ ngày xưa trong cùng một viện mồ côi. Bây giờ là cô giáo. Hai người gặp lại và tình yêu nẩy nở trong thời gian Tâm học ở trường Thủ Đức. Cả vợ chồng tôi đều có mặt trong ngày cưới, và làm chủ hôn bên họ nhà trai. Đám cưới xong, tôi vận động xin cho vợ Tâm được chuyển lên dạy tại một trường tiểu học nằm trong thành phố Pleiku, để vợ chồng được gần gũi nhau hơn.
Đầu tháng 3/1975 Ban Mê Thuột thất thủ, bản doanh Bộ Tư lệnh SĐ 23 BB bị tràn ngập sau một phi vụ bắn nhầm. Ông Tư Lệnh Phó cùng ông tỉnh trưởng Đắc Lắc bị bắt. Hai tiểu đoàn của Trung Đoàn 44 được trực thăng vận nhảy xuống đầu tiên ở Phước An, quận duy nhất còn lại của tỉnh Đắc Lắc, nhằm vừa ngăn chặn địch quân tràn xuống Khánh Dương theo Quốc lộ 21, vừa tái chiếm thị xã Ban Mê Thuột khi tình hình cho phép. Tâm có mặt trong toán quân đầu tiên này. Tôi không gặp được Tâm nhưng có liên lạc nói chuyện vài lần trong máy vô tuyến. Tâm rất đau lòng khi phải bỏ vợ và đứa con gái ba tuổi trên Pleiku, trước khi gởi gấm cho anh trung sĩ tiếp liệu đại đội cố dắt theo cùng đoàn quân triệt thoái về tỉnh lộ 7, bây giờ không biết ra sao. Tâm khẩn khoản nhờ tôi tìm mọi cách liên lạc và giúp vợ con mình. Tôi lấy cái tình anh em kết nghĩa mà thề với Tâm là tôi sẽ cố gắng hết sức mình. Không ngờ, đó là một kế hoạch triệt thoái tồi tệ nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, đã làm mất biết bao nhiêu sinh mạng, kéo theo sự sụp đổ cả miền Nam. Ra tận Tuy Hòa, đứng đón dòng người tả tơi, nét mặt còn đậm nỗi kinh hoàng, họ vừa trải qua và chứng kiến biết bao nhiêu cái chết thê thảm để được đến bên này bờ con sông Ba nhuộm máu, tôi nghĩ là tôi chẳng còn có cơ hội nào gặp lại vợ con Tâm. Trở lại Khánh Dương, đúng lúc Phước An thất thủ và đơn vị của Tâm đã phải tan hàng, tôi gặp lại vị chỉ huy của Tâm ở Dục Mỹ, ông xác nhận là trung úy Nguyễn Thượng Tâm đã nằm lại trên đỉnh đồi Chu Cúc, khi chiến đấu tới viên đạn cuối cùng rồi tự sát trước một biển người của địch quân tràn lên chiếm giữ.
* * *
Hơn sáu tháng định cư ở Nauy, cả nhà tôi lúc nào cũng miệt mài để sớm hội nhập vào quê hương mới. Thời gian qua nhanh quá. Mới đây mà chúng tôi cũng đã tập tành tổ chức ngày lễ Giáng Sinh và ăn cái tết Tây đầu tiên theo truyền thống của Nauy. Sau đó bận bịu đi học đi làm, và cũng chẳng có cuốn lịch Âm lịch nào để biết ngày nào là Tết Ta, Nguyên Đán. Một buổi tối vợ chồng tôi đang ngồi cãi nhau về thời điểm giao thừa để thắp một nén hương tưởng nhớ ông bà, thì điện thoại reo. Bà Huyền-Trân Thomassen gọi, mời cả nhà chúng tôi tối mai lên ăn tết với gia đình, chồng bà từ Mexixo cũng mới trở về. Bà cho biết bây giờ đã là sáng mồng một Tết bên Việt Nam. Thì ra, chúng tôi tệ quá, mới rời khỏi Việt Nam hai năm mà không còn nhớ ngày tết và tổ chức mừng Tết như bà. Tôi cám ơn và nhận lời bà xong, vội vàng thắp mấy nén hương tạ tội ông bà. May mắn ngày mai là thứ bảy.
Bà biết gia đình chúng tôi có tới mười người mà chỉ có một cái xe Ford vừa nhỏ vừa cũ, nên bà đặt một chiếc taxi tám chỗ ngồi lại đón chúng tôi. Bà xã tôi chỉ huy bầy con gái trên chiếc taxi, còn tôi lái xe chở đám con trai chạy theo sau. Trời thật lạnh, tuyết rơi trắng cả bầu trời. Chúng tôi phải chạy gần một tiếng đồng hồ mới tới nhà bà. Bà ở trong một ngôi biệt thự khá xinh, cách trường đại học Oslo, nơi bà dạy, chừng năm phút lái xe. Trong phòng khách bà trang trí giống như tết ở Việt Nam, đặc biệt có cả một cành mai thật to (một loài hoa Bắc Âu nở hoa vào mùa đông, nhìn giống như hoa mai) trong một cái bình sứ lớn, nằm ở giữa nhà. Chồng bà rất phúc hậu, và nói được một ít tiếng Việt. Khi giới thiệu ông với chúng tôi bà đùa:
- Hoàng đế Chế Mân của tôi đây.
- Không, tôi là Trần Khắc Chung. Ông vừa đưa tay bắt tay tôi vừa đùa.
Ông ta khá am tường về lịch sử Việt nam. Ông cũng biết khá nhiều và có những nhận định khá công bình về cuộc chiến Việt nam. Ông cho biết là lúc cuộc chiến Việt Nam đang ác liệt, khi ấy ông là trưởng ban ngoại giao của Quốc Hội Nauy, đã phản đối kịch liệt những nhóm tả khuynh và đặc biệt là những nhận định và việc làm của ông Olaf Palma, thủ tướng Thụy Điển, người đã hô hào ủng hộ Bắc Việt và tuyên bố sẵn sàng chấp nhận cho binh lính Mỹ đào ngũ đến dung thân ở nước ông. Khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, nhìn hàng triệu người phải bỏ nước ra đi, ông vừa kịp phản tỉnh thì cũng bị ám sát chết.
Bữa ăn còn có cả dưa hành, thịt kho và bánh chưng. Tôi phục bà và thấy xốn xang nhớ những ngày tết lúc tôi còn nhỏ ở quê nhà.
Ăn uống xong, bà còn lì xì bì thơ màu đỏ cho mấy đứa con và mấy đứa cháu của tôi. Tôi đành phải ngượng ngùng xin lỗi vì không chuẩn bị kịp quà cáp cho hai đứa con của bà. Nhưng bà rất khéo léo, khi bảo sự có mặt của gia đình chúng tôi trong thời khắc đặc biệt này đã là một món quà vô giá, rất có ý nghĩa cho mẹ con bà.
Tôi thay mặt gia đình cám ơn, chúc tết ông bà và gia đình. Tôi cũng nói lên lòng ngưỡng mộ của chúng tôi đối với một người đã xa quê hương lâu ngày và lập gia đình với một người ngoại quốc mà vẫn còn giữ được truyền thống và bản sắc văn hóa Việt Nam, trong lúc một số người mới chân ướt chân ráo sang đây đã vội tập tành thành người bản xứ, muốn quên hết nguồn cội của mình.
Chia tay bà lúc gần mười hai giờ đêm. Đường sá vắng tanh. Tuyết vẫn rơi kín bầu trời. Không quen lái xe trên tuyết, tôi chạy thật chậm. Khi đến trước khu đại học Blindern, tôi thấy có một người đứng dưới tàng cây thông, đưa tay đón. Tôi dừng xe lại. Một cô gái chạy tới xin quá giang về nhà, vì cô dự tiệc tối ra, đã gọi taxi khá lâu mà không thấy tới. Tôi bảo đứa con trai lớn của tôi ra ngồi ở băng sau, nhường ghế trước cho cô gái. Khi cô lễ phép chào tôi, và bắt tay mấy cậu con và cháu của tôi ngồi ở băng sau, tự giới thiệu tên Anita rồi ngồi lên ghế, tôi mới nhận ra cô gái gốc Á đông, nhưng phát âm tiếng Nauy và điệu bộ hoàn toàn như người bản xứ. Tôi ngạc nhiên khi thấy cô đang run vì lạnh. Cô chỉ mặc một cái áo khoác mỏng. Tôi dừng xe, cởi cái áo choàng bằng lông cừu choàng qua vai cô. Gương mặt cô bé xinh xắn dễ thương, nhưng phảng phất buồn. Tôi hỏi cô bé đến từ nước nào. Cô cho biết cô được cha mẹ nuôi người Nauy nhận mang về đây lúc chưa tròn ba tuổi, nên cô chẳng biết gì. Sau này lớn lên, cô mới được cha mẹ nuôi kể lại là cô được Cơ quan Bảo Trợ Nhi Đồng LHQ nhận từ một viện mồ côi ở Việt Nam vào năm 1975. Ông bà xin nhận cô làm con nuôi từ Cơ quan này. Cô bé rất mong muốn được trở lại Việt nam một lần, để biết nơi mình sinh ra và nhờ người tìm lại tông tích, mồ mả của cha mẹ ruột. Cô sẽ xây mộ cho ông bà. Cha mẹ nuôi có hứa sẽ đưa cô về sau khi cô học xong trung học, và khi nào việc xin visa vào Việt Nam dễ dàng hơn. Nhà cô không xa nơi tôi ở, có lẽ không quá hai mươi phút lái xe. Khi qua hết mấy khu rừng thông thanh vắng, cô chỉ ngôi nhà lớn nằm lưng chừng trên một ngọn đồi, bảo tôi dừng lại phía dưới. Cô sẽ đi lên bằng con đường tắc. Cô cám ơn tôi, cởi trả lại tôi cái áo choàng. Cô hỏi xin tôi một mảnh giấy, viết địa chỉ xong rồi đưa lại cho tôi. Cô mời tôi đến Lễ Phục Sinh ghé lại nhà cô chơi. Vì chỉ còn một ngày nữa cô phải đi London tiếp tục theo học một năm chương trình trao đổi học sinh. Cha mẹ nuôi của cô rất thích nói chuyện với người Việt Nam, nhất là những người đã từng tham gia cuộc chiến. Tôi hứa với cô là thế nào tôi cũng đến thăm cô cùng ông bà cha mẹ nuôi tốt bụng.
Về nhà, khi kể lại chuyện cô bé quá giang cho vợ và mấy cô con gái nghe, tôi mới nhận ra một điều: sao tôi lại có duyên với những người mồ côi đến thế. Suốt cả đêm hôm ấy tôi nằm trằn trọc nghĩ đến thân phận mình và nhớ thật nhiều đến Nguyễn Thượng Tâm, người mà tôi đã từng nhận làm đứa em kết nghĩa, nhưng mãi đến bây giờ vẫn chưa làm tròn được lời thệ ước của mình.
* * *
Ðến Lễ Phục Sinh, nhớ lời hẹn, tôi rủ bà xã và hai cô con gái lớn đến thăm cô Anita. Bây giờ là đầu tháng tư mà tuyết vẫn còn rơi trắng cả bầu trời. Nhờ ban ngày nên tôi thấy rõ nhà cô hơn. Ngôi nhà có dáng của một lâu đài, cổ kính, sang trọng. Chung quanh là một hàng thông. Chủ ngôi nhà chắc đã trọng tuổi và giàu có. Ngần ngừ một lúc, tôi bấm chuông. Đúng như tôi nghĩ, người mở cửa là một bà già khoảng trên bảy mươi, nhưng còn khỏe mạnh và nói năng vui vẻ lịch thiệp. Bà ngạc nhiên nhìn tôi, và hỏi tôi đến có việc gì bất ngờ mà bà không đuợc báo trước. Tôi xin lỗi, giới thiệu tên mình và cho bà biết là tôi có hẹn với cô Anita, con gái của bà, đến thăm cô ấy và vợ chồng bà. Có lẽ cô Anita quên, không kể chuyện lại với bà. Bà tròn mắt ngạc nhiên:
- Anita nào ? vì đứa con gái duy nhất của chúng tôi đã chết rồi mà.
Bây giờ đến lượt tôi ngơ ngác. Tôi kể cho bà nghe chuyện tôi gặp cô Anita trước cổng trường đại học hồi tháng hai, và cho cô quá giang về đây lúc nửa đêm. Bà mời tôi vào nhà, chỉ cho tôi tấm ảnh treo trên vách.
- Đây chính là cô Anita mà tôi đã gặp, trước khi cô trở lại London để tiếp tục học. Tôi nói to như để xác nhận với bà.
Bà nhìn tôi sụt sùi hai dòng nước mắt.
- Ðúng rồi, sau lần về thăm nhà và cũng để khám bệnh ấy, thay vì trở lại trường, con tôi phải vào bệnh viện, do một mảnh đạn nằm sâu trong tim từ lúc cháu ba tuổi, và cháu qua đời sau đó một tuần. Trước đây, bác sĩ có khám và chụp hình, nhưng bảo mảnh đạn nằm ở một vị trí khá an toàn, và rất nguy hiểm nếu phải giải phẩu. Không ngờ cháu lại chết vì chính mảnh đạn từ thời chiến tranh này.
Bà ra nhà sau lên tiếng gọi ông chồng, kể cho ông nghe câu chuyện tự nãy giờ. Ông đến chào tôi, và bảo tôi chờ ông bà mặc áo lạnh rồi sẽ dẫn tôi ra nghĩa trang, nằm không xa ở phía sau nhà, thăm ngôi mộ cô con gái.
Ngôi mộ phủ đầy tuyết trắng. Bà đưa tay phủi lớp tuyết trên tấm bia, hàng chử khắc sâu trên bia: ANITA NGUYEN HILDE. Nhìn tấm ảnh trên mộ bia, tôi có cảm giác dường như cô cũng đang nhìn tôi mỉm cười. Tôi đứng trước mộ, chấp hai tay khấn nguyện một đôi điều. Ông bà chủ nhà sụt sùi, bảo với tôi đó là cô con gái duy nhất mà ông bà hết lòng thương quí. Từ khi cô ta qua đời, ông bà chẳng còn thiết tha bất cứ thứ gì trên cõi đời này nữa. Đưa tôi trở lại nhà, ông châm củi thêm vào lò sưởi, rót mời tôi một tách cà phê nóng. Ông bảo nếu cô không chết thì mùa hè này ông bà sẽ đưa cô về thăm quê hương nguồn cội ở Việt Nam. Riêng cha mẹ ruột của cô thật sự đã chết trong chiến tranh rồi.
Dường như vừa nhớ lại một điều gì, ông đứng lên bước tới kệ sách, quay lại nói vói tôi:
- Trong hồ sơ của con tôi, người ta có ghi chú: Khi hấp hối, mẹ cháu có trăn trối nhờ người mang nó về một viện mồ côi mà bà quen. Bà có để trong túi áo quần của đứa con một tấm hình khi vợ chồng bà làm đám cưới. Sau tấm hình có ghi tên và đơn vị của ba cháu. Đó cũng là dấu tích duy nhất về gốc gác của cô con gái nuôi yêu dấu của chúng tôi.
Tôi chưa kịp hỏi, ông đã đưa cho tôi tập album, và chỉ cho tôi một tấm ảnh đen trắng ngã màu vàng sậm, được dán ngay ở trang đầu. Nhìn tấm ảnh, tôi giật thót cả người, như đang bị mộng du vào một cõi xa xăm nào đó: hai người trong tấm ảnh chính là vợ chồng Nguyễn Thượng Tâm, người em mồ côi kết nghĩa mà chúng tôi đã lạc mất nhau trong những ngày cuối của một cuộc chiến huynh đệ tương tàn.
phạmtínanninh

MỸ BỐ TRÍ B-2 Ở CHÂU Á

Hai máy bay ném bom tàng hình B-2 Spirit của Không quân Mỹ đang được điều động tới căn cứ Không quân Andersen trên đảo Guam, khu vực khá gần Trung cộng.

Máy bay ném bom tàng hình Mỹ đến gần TQ

Tháng 11/2012, Không quân Mỹ đã tuyên bố kế hoạch khai triển huấn luyện loại máy bay B-2 Spirit trên khắp thế giới. Và giờ đây , kế hoạch mang tên World Spirit Tour này đang đưa hai máy bay có khả năng tránh sự phát giác của radar , thuộc phi đội ném bom số 509 tại căn cứ Không quân Whiteman này đến căn cứ Không quân Andersen, Thái Bình Dương.
Nằm cách phía đông Trung cộng khoảng 2.900 km, căn cứ Andersen là nơi bố trí lực lượng máy bay ném bom chiến lược kể từ năm 2004.
Ảnh: The Aviationist.
Máy bay ném bom chiến lược B-2 Spirit được coi là vũ khí tấn công tầm xa của Mỹ và hiện vẫn là máy bay ném bom tàng hình tầm xa duy nhất trên thế giới. Theo đánh giá của các chuyên gia, B-2 Spirit là một trong những loại phi cơ có khả năng chống chịu thời tiết tốt nhất . Đây là mẫu máy bay của Mỹ quy tụ cả 3 đặc tính tầm xa, trọng tải lớn và tàng hình.
Nó có thể bay hơn 11.112 km mà không cần tái tiếp nhiên liệu và hơn 18.520 km với chỉ một lần tái tiếp nhiên liệu trên không. B-2 Spirit có khả năng chở hơn 20 tấn vũ khí hạt nhân và ném bom một cách chính xác dưới mọi điều kiện thời tiết.
Những khả năng , kể cả tính năng tàng hình, đã cho phép loại máy bay này xâm nhập các hệ thống phòng không tối tân nhất và đặt các mục tiêu được bảo vệ nghiêm ngặt, có giá trị cao của kẻ thù vào vòng nguy hiểm.
B-2 cũng được coi là loại máy bay chiến đấu đắt nhất trong lịch sử hàng không trên thế giới. Tính chính xác cả chi phí nghiên cứu và phát triển, giá trị mỗi chiếc B2 vào thời điểm hiện nay khoảng 2,1 tỷ USD.
Mỹ đã xác nhận chiến lược trục xoay hướng trọng tâm về châu Á - Thái Bình Dương - khu vực mà sức mạnh quân sự Trung cộng đang trỗi dậy khiến Washington cùng các đồng minh địa phương lo ngại.
XEM VIDEO
B-2 Spirit
LINK

Wednesday, January 23, 2013

ĐẤT NƯỚC NÀY CỦA AI? CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM HAY CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN?


Tuesday, January 22, 2013

 


Nguyễn Thu Trâm, 8406


Đã có bao giờ quý vị thử hỏi chính mình rằng đất nước Việt Nam này là của ai hay chưa? Câu hỏi nghe qua có phần ngớ ngẫn, nhưng nếu cứ suy gẫm kỷ về hiện tình đất nước trong non một thế kỷ qua cũng như với những gì đang diễn ra trên quê hương này trong mấy năm qua, cả trong cung cách cai trị người dân của đảng và nhà nước cầm quyền cũng như trong cách thức kinh bang tế thế của họ để thấy thật cần thiết cho mỗi người dân Việt tự đặt câu hỏi và tự tìm ra lời giải đáp cho chính mình rằng đất nước Việt Nam này là của ai? Của Dân Tộc Việt Nam hay của đảng cộng sản, của Hồ Chí Minh?

Xin hãy ngược dòng thời gian, quay về với lịch sử dựng và giữ nước của ông cha ta từ bao đời qua mà theo một truyền thuyết thì về thời Hồng Bàng, cách đây hơn 4000 năm các tộc người Việt cổ (Bách Việt) đã xây dựng nên nhà nước Xích Quỷ có lãnh thổ rộng lớn tại khu vực ngày nay là miền nam sông Dương Tử (Trung Quốc). Tới thế kỷ 7 trước công nguyên (TCN), người Lạc Việt, một trong những nhóm tộc Việt ở phía Nam đã lập nên nhà nước Văn Lang tại khu vực mà ngày nay là miền Bắc Việt Nam, và kế tiếp là nhà nước Âu Lạc vào giữa thế kỷ 3 trước công nguyên.

Bắt đầu từ thế kỷ 2 TCN, người Việt ở đây bị các triều đại phong kiến Trung Quốc cai trị trong hơn 1000 năm. Sau nhiều lần khởi nghĩa không thành của Bà Triệu, Mai Thúc Loan,... hoặc chỉ giành độc lập ngắn của Hai Bà Trưng, Lý Bí... đến năm 905 Khúc Thừa Dụ đã giành quyền tự chủ cho người Việt, và Việt Nam chính thức giành được độc lập lâu dài sau trận chiến lịch sử trên sông Bạch Đằng do Ngô Quyền chỉ huy trước đoàn quân xâm lược Nam Hán năm 938.
Ải Nam Quan Theo Hiệp Ước Biên Giới PHÁP-THANH
Sau khi giành được độc lập, từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 15 Việt Tộc lại tiếp tục chiến đấu một cách ngoan cường chống lại nhiều cuộc xâm lược bởi các triều đại phương Bắc của giặc Hán, giặc Mông , và giặc Mãn Thanh để giữ nguyên cõi bờ ở phía Bắc, đồng thời các Triều đại Quân Chủ Việt Nam cũng nhiều lần chinh phạt quân Chiêm Thành và mở mang lãnh thổ dần xuống phía Nam để rồi từ năm 1757 đất nước Việt Nam đã có ranh giới địa lý gần như hiện nay.

Thế rồi đến giữa thế kỷ 19, cùng với các nước ở Đông Dương, Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp. Trong Thế chiến thứ hai, đất nước Việt Nam lại tiếp tục bị xâu xé giữa thực dân Pháp và Phát xít Nhật, tuy nhiên suốt gần 100 năm bị đô hộ bởi giặc Tây đó, Việt Nam vẫn không hề bị mất đi một tấc đất liền hay một sãi nước biển. Vậy mà ngay sau khi hay tin phát xít Nhật đầu hàng quân Đồng Minh, Hồ Chí Minh tiến hành thanh trừng các lãnh tụ của các chính đảng đương thời và cướp chính quyền từ tay các đảng phái chính trị Quốc gia đó, rồi đến ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một nhà nước theo chế độ cộng sản đặt dưới sự điều hành trực tiếp của Quốc Tế cộng sản mà cụ thể là Nga Sô và Trung cộng. Và, chính là từ thời điểm lịch lử đó vận mệnh của quốc gia, của dân tộc đã hoàn toàn vuột khỏi tay người dân mà nằm gọn trong tay của Hồ Chí Minh và các thuộc hạ của y trong bộ chính trị ban chấp hành trung ương đảng CSVN. Và cũng chính từ thời điểm này, lãnh thổ, lãnh hải của tổ quốc Việt Nam cứ tiếp tục bị thu hẹp lại dần: Ngày 14 tháng 9 năm 1959, thừa lệnh Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng đã ký Công Hàm bán đứng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung cộng, mà hệ lụy là sự ra đời của đường lưỡi bò chín đoạn biến gần như 85% hải phận của Việt Nam thành “ao nhà” của trung cộng. Và từ đó thảm họa đã liên tục xãy đến cho ngư phủ Việt Nam khi đi khai thác hải sản trong hải phận của tổ quốc mình: Hàng chục vụ ngư thuyền của ngư phủ Việt Nam bị “Tàu Lạ” đụng chìm, hàng trăm vụ việc ngư phủ Việt bị trấn cướp bởi các lực lượng tuần dương và hải quân của “nước bạn”, hàng trăm ngư phủ của Việt Nam đã bị các lực lượng tuần dương và hải quân của “nước bạn”, bắn chết cùng hàng trăm ngư dân khác bị bắt đưa về “nước bạn” giam giữ và đòi tiền chuộc, mà số tiền chuộc cho mỗi ngư dân này xấp xỉ với số tiền lương của 20 năm làm việc của một công nhân viên chức của Việt Nam, trong khi đó đói với những ngư dân nghèo này thì dẫu có bán hết nhà cửa ruộng vườn, vợ con và bán cả bà con hai họ cũng không thể đủ tiền để chuộc họ về: Thật là xót thương cho thân phận con người ở cái thiên đường XHCN của “bác và đảng”.

Ải Nam Quan Ngày Ấy...
Cứ thế, phần lãnh thổ của Việt Nam cũng tiếp tục thu hẹp dần: Từng cây số trên quê hương là từng giòng máu lệ, máu của cha ông ngăn thù và máu của hai miền huynh đệ chan hòa vào nhau trong hoan lạc dành cho Quốc tế Cộng Sản. Và đang trở về đây là những bước chân âm thầm của ngàn năm nô lệ. Kết quả từ công cuộc nhuộm đỏ với danh xưng “độc lập dân tộc, thống nhất tổ quốc” theo tư tưởng Hồ Chí Minh và lủ thuộc hạ.

Hãy tiếp tục nhìn những gì mà nhà cầm quyền CSVN đang ra sức thực hiện: “Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, Bãi Tục Tục không thuộc lãnh thổ Việt Nam!”. Họ cố chối bỏ lịch sử Việt Nam và ra sức tranh cãi, biện luận với dân Việt thay cho Trung Cộng.
Kính thưa quý vị,

Theo Dư Địa Chí do Nguyễn Trãi, một khai quốc công thần nhà Hậu Lê, soạn năm 1435 thời vua Lê Thái Tông, thì toàn bộ hai phần thác Bản Giốc gồm thác Chính và thác Phụ vốn đều thuộc về Việt Nam. Cả hai thác này đã bị mất cho Trung Cộng từ khi Hồ Chí Minh cướp chính quyền, và sau khi cưỡng chiếm được hai thác này, Trung cộng đã đặt lại tên cho hai thác này là thác Đức Thiên và thác Bản Ước (德天-板約). Thế mà thứ trưởng Bộ ngoại giao Việt Nam Vũ Dũng khẳng định rằng “thông tin đó hoàn toàn không có cơ sở, rằng Công ước Pháp-Thanh 1887 và Hiệp định 1999 đều quy định đường biên giới khu vực này chạy theo trung tuyến dòng chảy sông Quế Sơn (Quây Sơn), lên thác và tới mốc 53 phía trên. Nghĩa là, phần thác phụ hoàn toàn nằm bên phía Việt Nam, phần thác chính có một phần thuộc Trung Quốc”.

“Ô nhục! Từ quan đến quân, cộng sản Việt Nam xét cho cùng chỉ là một lũ tôi mọi dâng đất, dâng biển của tổ tiên cho ngoại bang bằng văn tự công hàm, hiện rõ hình hài là một bọn quái thú chưa từng có trong lịch sử nhân loại!”.

Ải Nam Quan Trước Khi Hồ Chí Minh Lên Ngôi
Trên thực tế, phần Bãi Tục Lãm là một bãi đất bồi dài khoảng 1,5 km, diện tích 52 ha nằm tại cửa sông Ka Long đổ ra vịnh Bắc Bộ thuộc phường Hải Hoà, thị xã Móng Cái, Quảng Ninh. Bãi được bao phủ bởi một thảm thực vật ngập mặn và không có người định cư, nằm giữa ranh giới Việt Nam-Trung cộng và là nơi khởi đầu của đường biên giới trên bộ của hai nước, tính từ biển Đông. Khu vực biên giới vùng cửa sông này đã được Pháp - Thanh hoạch định và cắm mốc theo Hiệp ước Pháp-Thanh. Nhưng vào thời điểm đó các cồn bãi Tục Lãm, Tài Xẹc, Dậu Gót đều đang hình thành từ đất sa bồi của giòng sông Ka Long và chưa có hình thể cũng như quy mô như hiện tại. Trong chiến tranh biên giới Tây Bắc 1979, Trung cộng đã chiếm giữ Cồn đất này và tuyên bố rằng Bãi Tục Lãm thuộc lãnh thổ của Trung cộng.
Hồ Chí Minh Trong Một Thương Vụ Bán Đất Cho Tàu

Đến ngày 22 tháng 12 năm 2008, thông qua đàm phán chính trị giữa Việt cộng và Trung cộng, hai bên đã thoả thuận phân chia ranh giới, qua đó, Việt Nam chính thức nhựơng 1/4 diện tích bãi Tục Lãm nằm về phía Đông Bắc cho phía Trung Cộng, thỏa thuận này có thể được xem là Công Hàm 2008 của cộng sản Việt nam về việc dâng bán đất đai của tổ quốc cho Hán Tặc.
Riêng Ải Nam Quan, từng là Biên Ải của hai nước Việt Nam- Trung Quốc từ ngàn năm trước, mà lịch sử của cả hai nước đã ghi lại rằng:

Vào năm 981, sau khi vua Đinh Tiên Hoàng của Đại Cồ Việt bị ám sát, vua nhà Tống là Tống Thái Tông sai Hầu Nhân Bảo tấn công Đại Cồ Việt qua đường Lạng Sơn, đi qua ải Nam Quan.
Ải Nam Quan... Sau Công Hàm 2000
Năm 1077, Tống Thần Tông sai Quách Quỳ tấn công Đại Việt, quân bộ đã đi theo đường Nam Quan, xuống ải Quyết Lý rồi ải Chi Lăng.
Năm 1284, 1287, vua nhà Nguyên là Hốt Tất Liệt (Kubilai) đã sai Thoát Hoan tấn công Đại Việt bằng đường bộ qua Lạng Sơn, ắt phải qua ải Nam Quan.
Năm 1774, Ðốc trấn Lạng Sơn là Nguyễn Trọng Ðang cho tu sửa, xây lại Ải Nam Quan bằng gạch. Về việc sửa sang đài Ngưỡng Ðức, văn bia của Nguyễn Trọng Ðang ghi khắc có đoạn như sau:
"... Ðài "Ngưỡng-Ðức" không biết dựng từ năm nào; hình như mới có từ khoảng niên hiệu Gia-Tĩnh nhà Minh, ngang với niên-hiệu Nguyên-Hòa, đời vua Lê Trang Tông ở nước ta. Ðài không có quán, hai bên tả hữu lợp bằng cỏ; sửa chữa qua loa, vẫn theo như cũ. Nhà Lê ta trung hưng, đời thứ 14, vua ta kỷ-nguyên thứ 41, là năm Canh tý, ngang với năm thứ 44 niên hiệu Càn-Long nhà Thanh; Ðang tôi làm chức Ðốc-trấn (Lạng-Sơn), trải qua 5 năm là năm Giáp-thìn; sửa chữa lại, xây dựng bằng gạch ngói, đài mới có vẻ hoành tráng...".

Năm 1788, theo lời cầu viện của thân mẫu của Lê Duy Kỳ, vua nhà Thanh là Càn Long (1736-1795) cử Tôn Sĩ Nghị cầm đại quân sang Đại Việt, đi bằng ba ngả: Tôn Sĩ Nghị cùng Hứa Thế Hanh vào cửa Nam Quan, qua Lạng Sơn đi xuống, Sầm Nghi Đống đi qua đường Cao Bằng, và đề đốc Vân Nam Ô Đại Kinh vào đường Tuyên Quang. Đoàn quân viễn chinh nhà Thanh bị vua nhà Tây Sơn là Quang Trung đánh tan, phải chạy tháo thân về Tàu vào đầu năm Kỷ Dậu (1789).

26 tháng 6 năm 1887, Công Ước Về Hoạch Ðịnh Biên Giới Giữa Việt Nam và Trung Quốc ký giữa Pháp và Nhà Thanh. Ngày 21 tháng 04 năm 1891 tiến hành cắm cột mốc tại vùng biên giới gần ải Nam quan.

Năm 1907, Tôn Trung Sơn và Hoàng Hưng phát động cuộc khởi nghĩa Trấn Nam Quan chống Thanh, nhưng thất bại.

Năm 1957, Chính phủ tỉnh Quảng Tây đã chi tiền trùng tu lại thành lầu Hữu Nghị quan, trở thành một kiến trúc ba tầng như hiện nay.

Từ ngày 17 tháng 2 năm 1979, trong Chiến tranh biên giới Việt-Trung, Trung cộng đã tung trên 660.000 quân tấn công Việt Nam ở sáu tỉnh biên giới: Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh, và đã chiếm được các thị xã Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn.

Bộ binh Trung cộng vào thị xã Lào Cai bằng thung lũng sông Hồng, vào thị xã Cao Bằng theo thung lũng sông Bằng (Bằng Giang), và vào thị xã Lạng Sơn theo thung lũng sông Kỳ Cùng, vào ải Nam Quan. Sau khi rút quân ngày 5 tháng 3 năm 1979, quân Trung cộng vẫn chiếm giữ vùng đất phía nam ải Nam Quan, và trạm hải quan (quan thuế) của cộng sản Việt Nam phải dời xuống phía nam ải nầy, sâu trong lãnh thổ Việt Nam.

Than ôi! ..."Trung-Việt Quốc Giới" Nay Còn Đâu....

Vào ngày 30 tháng 12 năm 1999, tại Hà nội, bộ trưởng ngoại giao của cộng sản Việt Nam là Nguyễn Mạnh Cầm và bộ trưởng ngoại giao của Trung cộng Đường Gia Triền đã chính thức ký ‘Hiệp ước biên giới trên đất liền’, theo đó Ải Nam Quan thuộc về Trung quốc. Bản hiệp ước này được quốc hội Trung cộng thông qua ngày 29 tháng 4 năm 2000, và quốc hội cộng sản Việt Nam thông qua ngày 9 tháng 6 cùng năm đó, và việc cắm mốc biên giới bắt đầu từ năm 2001 đến cuối năm 2008 là xong. Bản ‘Hiệp ước biên giới trên đất liền’ được xem là “Công Hàm” 2000 của cộng sản Việt Nam, dâng bán thêm một phần đất đai của tổ quốc cho Rợ Hán Bắc phương. Vì vậy mà từ năm 2000 cho đến nay, ải Nam Quan thuộc chủ quyền của Trung Cộng, thuộc tỉnh Quảng Tây, cách thị trấn Bằng Tường của Trung cộng 15 km về phía tây và cách thi trấn Đồng Đăng của Việt nam 5 km về phía bắc. Chính quyền CSVN cho xây lại cửa khẩu Hữu Nghị Quan nằm tại Đồng Đăng xác định lại biên cương của tổ quốc lùi sâu vào lãnh thổ của Việt Nam so với đường biên giới xưa theo Hiệp Ước Pháp-Thanh, cách cột mốc biên giới cũ đúng 5 km.

Nếu không tự cho mình cái quyền sở hữu cả giang sơn Đại Việt này, làm sao Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng cùng đám thuộc hạ lại dám ký Công Hàm 1958 để dâng biển, nhượng đảo cho Hán Tặc để rồi ngư dân Việt bị cướp, bị giết, bị bắt giữ và đòi tiền chuộc bởi chính quyền nước bạn?

Nếu không tự cho rằng đất nước Việt Nam này là của riêng đảng cộng sản, sao tên cộng nô Nguyễn Mạnh Cầm và đảng cộng sản Việt Nam lại ngang nhiên ký công hàm 2000 dâng bán Ải Nam Quan và hàng trăm km2 dọc biên giới phía Bắc cho Rợ Hán?

Nếu không cho rằng đất nước Việt Nam là tài sản riêng tư của đảng cộng sản, sao Thứ Trưởng Ngoại Giao Vũ Dũng dám ký Công Hàm 2008 dâng bãi Tục Lãm cho Hán Ngụy để đường biên giới phía Đông Bắc của tổ quốc cứ thế bị thu hẹp dần theo sự lắng bồi của phù sa sông Ka Long để rồi bãi Tục Lãm được bồi đắp lớn rộng đến đâu thì lãnh thổ của Việt Nam bị thu hẹp đến đó?

Nếu không tự cho mình cái quyền uy tối thượng được ngồi trên đầu cả dân tộc Việt Nam này sao đảng cộng sản Việt Nam dám tự ý cho Hán Ngụy thuê hàng triệu Hecta rừng đầu nguồn với thời lượng gần car 100 năm, một khoảng thời gian đủ để cho 4 thế hệ người Hán được sinh ra và an cư trên mãnh đất mà những “đồng chí tốt, láng giềng tốt” của chúng đã hữu hảo dâng bán?

Nếu không tự cho rằng đất nước Việt Nam này là tài sản riêng của đảng cộng sản, sao Thái Thú Nguyễn Tấn Dũng lại ngang nhiên dâng bán Tây Nguyên cho Hán Tặc đến khai thác Bauxite vừa nhằm tàn hại môi trường sinh thái của Việt Nam vừa thực hiện chính sách di dân đường dài để giải quyết nạn nhân mãn của Thiên Quốc?

Nếu không nghĩ rằng cả dân tộc Việt Nam là một bầy đàn ngu muội và chỉ là những kẻ nô lệ mà chủ nô là đảng cộng sản Việt Nam và mẫu quốc Trung cộng, thì tại sao nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam lại bắt cả toàn dân Việt Nam rúm ró hèn nhược trước giặc Tàu? Tại sao lại bắt bớ, giam cầm những người lên tiếng chống lại sự xâm lăng bờ cõi của giặc Tàu và âm mưa Hán hóa của chúng, như Bùi Thị Minh Hằng, Phạm Thanh Nghiên, Cù Huy Hà Vũ? Điếu Cày Nguyễn Văn Hải và anh Ba Sài Gòn Phan Thanh Hải và nhạc sỹ Việt Khang? Tại sao lại ngăn cấm người dân Việt Nam thể hiện lòng yêu nước và căm thù giặc ngoại xâm? Tại sao lại đàn áp hết sức dã man những người Việt Nam biểu tình chống Tàu cộng xâm lược? Tại sao những đầy tớ của nhân dân lại đi bắt bớ giam cầm tra tấn những người dân yêu nước khẳng định chủ quyền biển đảo rằng “Hoàng Sa – Trường Sa Là Của Việt Nam”?

Thác Bản Giốc Nay Đã Thành Thác Đức Thiên của Tàu...

Trong tư duy của nhà cầm quyền cộng sản, phải chăng, nếu như Vua Trần Nhân Tông cũng là một đảng viên cộng sản, thì Ngài đã xuống chiếu “trảm” tất cả các bô lão dự Hội Nghị Diên Hồng, vì họ đã quyết một lòng chống lại 50 vạn quân Mông Cổ xâm lược?

Nếu nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam và những con người cộng sản thừa nhận rằng đất nước Việt Nam là của Dân Tộc Việt Nam vì họ cũng còn chút lương tri và một tí chút nhân cách, thì hãy trao trả lại đất nước Viêt Nam cho 96 triệu người dân Việt, hãy trao vận mệnh đất nước Việt Nam cho toàn dân Việt Nam quyết định, chứ không phải chỉ một Hồ Chí Minh, một Phạm Văn Đồng, một Nguyễn Mạnh Cầm, một Vũ Dũng, một Lê Khả Phiêu, một Nguyễn Tấn Dũng, một Nguyễn Phú Trọng… được toàn quyền quyết định vận mệnh của đất nước của dân tộc này… Và nếu thế, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam hãy trả tự do ngay tức khắc và vô điều kiện cho tất cả những người đang bị cầm tù vì tội yêu nước và hãy phong cho họ là những anh hùng vệ quốc bởi xét rằng họ là những người yêu nước đích thực, không hề nhận mệnh lệnh của Quốc Tế Cộng Sản về để tiến hành diệt chủng, họ không hề bán đất liền, nhượng biển đảo cho ngoại bang… Xét về nhân cách thì họ cao trọng gấp triệu lần “cha già dân tộc” và những con người cộng sản thuộc hạ của chả.

Dân tộc Việt Nam chưa bao giờ úy kỵ giặc Tàu dù đã phải trải qua ngót 1.000 năm nô lệ, lịch sử đã chứng minh trong mọi cuộc chiến chống lại Tàu Man, dân Nam luôn giành chiến thắng dù thường phải lấy yếu để đánh mạnh, lấy ít để địch nhiều, đến nỗi, Hán Hiến Đế của Tàu Man phải thần phục mà rằng: Giao Chỉ là đất văn hiến, núi sông un đúc, trân bảo rất nhiều, văn vật khả quan, nhân tài kiệt xuất ..!”.

Thế, cớ làm sao nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam lại nịnh nọt bợ đỡ giặc Tàu? Việt Nam đường đường một quốc gia độc lập mà sao nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam lại tự nguyện xếp ngang hàng với một tỉnh biên giới của giặc Tàu là cớ làm sao?”.
Hồ Chí Minh và những con người cộng sản thuộc hạ vốn nhu nhược khiếp hèn trước ngụy Hán, nên phải dâng đất bán biển đảo rồi nhận Trung cộng làm mẫu quốc để cầu vinh, nhưng hãy luôn nhớ rằng Giao Chỉ là đất văn hiến, núi sông un đúc, trân bảo rất nhiều, văn vật khả quan, nhân tài kiệt xuất ..!”.

Nhược bằng cứ muốn tiếp tục sống nhục, sống hèn với ngụy Hán, để cầu an hưởng lạc thì nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam hãy công khai tuyên bố trước toàn dân rằng: “Đất Nước Việt Nam là của đảng cộng sản, không phải của dân tộc Việt Nam.

Cuối cùng, xin một lần nữa nêu lên tự vấn của riêng tôi và cho những người đang nặng lòng với vận nước rằng đất nước Việt Nam này là của ai, của dân tộc Việt Nam hay chỉ là của riêng đảng cộng sản?.



Nguyễn Thu Trâm, 8406
Năm Quốc nhục thứ 37

Tuesday, January 22, 2013

Ghi danh với Bộ Ngoại Giao Mỹ trước khi du lịch nước ngoài.

 



image

https://step.state.gov/step/


Một website rất hữu dụng cho công dân Mỹ khi du lịch đến bất cứ nước nào trên thế giới có quan hệ ngoại giao với Mỹ. Trước khi khởi hành, quý vị nên mở một account ghi danh miễn phí qua website: https://travelregistration.state.gov/ibrs/ui/ để thông báo với Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ lịch trình chuyến đi, địa chỉ, số điện thoại, tên khách sạn, thành phố của nước sở tại để được Tòa Đại Sứ Mỹ giúp đỡ trong trường hợp khẩn cấp.

Việc ghi danh này đơn giản nhưng rất hữu hiệu khi mất Passport, bị bắt giữ. v.v… Quý vị cũng sẽ nhận được thông tin về nước sắp đến như nước này có thể bị khủng bố hoặc đang có dịch hạch, v.v... Đặc biệt là khi quý vị đang ở VN mà nước ta bị Tầu cộng đánh chiếm hoặc có đảo chánh, nổ súng tranh dành quyền lợi của mấy anh tư bản đỏ trong Bộ Chính Trị thì qúy vị sẽ được ưu tiên di tản.

image
In reference to your upcoming travel to Vietnam, it is suggested that you go on-line to register all foreign travels. This is a safety precaution and alerts the Embassy that you are a US Citizen that will be in their country. You only have to register once, and then each time you travel you can change your itinerary. Just put in the minimum information. If you choose the part about traveling companions, they will require more information about the other person.

Monday, January 21, 2013

Trân trọng kính mời quý vị Tham dự NGÀY HOÀNG SA 2013

Văn Phòng Liên Lạc các Hội Đoàn và Người Việt Tự Do tại Pháp
Bureau de Liaison des Associations et Vietnamiens Libres en France

Bản Tin - Bulletins - News
http://www.giaiphapso.info/wp-content/uploads/2012/12/chuc-mung-nam-moi-2013-300x187.jpg
Chúc mừng năm mới Qúy Tỵ
Ban Tổ Chức Ngày HÒANG SA 2013
Kính chúc qúy vị và qúy gia quyến AN KHANG,THỊNH VƯỢNG
Nhưng không quyên những chiến sĩ Quân Lực VNCH
đã hy sinh để bảo toàn lãnh thổ, lãnh hải tiền nhân để lại.
Trân trọng kính mời quý vị Tham dự NGÀY HOÀNG SA 2013
Đểthắp nén nhang làm ấm lòng những chiến sĩ Quân Lực VNCH đã hy sinh
Trong trận hải chiến với Hải Quân Tàu Cộng tại quần đảo Hoàng Sa ngày 19.01.1974
Vinh danh và tưởng niệm các Quân - Cán - Chính Việt Nam Cộng Hòa
đã tuẫn tiết trong ngày Quốc Hận 30.04.1975
Đểgiữ tròn tiết tháo "Thà chết, không hàng giặc"
Được tổ chức vào ngày :Thứ bảy 26.01.2013
Từ:14.00đến 18.00giờ
Tại Nhà Thờ Saint Hippolyte
27, avenue de Choisy
75013 Paris
Sau phần tưởng niệm và văn nghệ với chủ đề "Cám ơn các anh"
Trân trọng kính mời qúy vị cùng năng ly rượu mừng xuân
và chúc nhau những lời chúc tốt đẹp nhất.
T/M Ban Tổ Chức
Đặngvũ
http://nguyentran.org/NhatLung/XMAS/Xmas2/Poinsettia7.jpg
http://nguyentran.org/NhatLung/Special4/NgayHoangSa_2013.jpg

HỆ QUẢ KINH TẾ NÀO CHO TRUNG QUỐC

 
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 17.01.2013
Vào năm 2007/08, chúng tôi quan tâm đến Khủng hoảng Tài chánh/Kinh tế từ Hoa kỳ lan sang Liên Au rồi cả Thế giới. Chúng tôi viết về cuộc Khủng hoảng này chính yếu là tìm xem hệ quả Kinh tế nào sẽ xẩy ra cho Trung quốc và Việt Nam. Chúng tôi đã xuất bản cuốn sách 400 trang với tựa đề: “Tài Chánh/Kinh Tế Thế Giới: KHỦNG HOẢNG 2007-2008 & HẬU QUẢ CHO VIỆT NAM“ (Nhà Xuất Bản DAY & NIGHT, Ventura, California USA 2009). Chính yếu hoạt động Kinh tế của một nước là SẢN XUẤT. Để việc sản xuất tiến triển thì phải bán được hàng hóa. Trung quốc nhằm chính yếu hai Thị trường Tiêu thụ Hoa kỳ và Liên Au để bán hàng hóa. Khi hai Thị trường này bị Khủng hoảng, bệnh tật về Mãi lực, thì hậu quả tác hại lên sản xuất của Trung quốc cũng như Việt Nam lệ thuộc vào xuất cảng.
Nhưng để có thể SẢN XUẤT, nhất là sản xuất hàng hóa xả láng như Trung quốc cho đầu ra của Xí nghiệp, thì đầu vào để sản xuất phải có NGUYÊN VẬT LIỆU và NHIÊN LIỆU NĂNG LƯỢNG. Trung quốc thiếu thốn Nguyên vật liệu và Nhiên liệu năng lương. Chính vì vậy mà Trung quốc phải đi tìm kiếm Nguyên vật liệu và Nhiên liệu năng lương khắp nơi, nhất là tại Phi châu. Việc tìm kiếm này đã gặp những phản ứng từ Phi châu, vùng thổ địa truyền thống của Aâu châu đã từ lâu. Một sự va chạm giữa Aâu châu và Trung quốc có thể xẩy ra nếu Trung quốc quá tham lam lấn chiếm Nguyên vật liệu và Nhiên liệu năng lượng của vùng thổ địa truyền thống Phi châu này.
Chính vì vậy, khi Quân sự Pháp can thiệp vào Mali và nới rộng ra các vùng khác, chúng tôi quan tâm nhìn xem Hệ quả nào giữa việc can thiệp quân sự nới rộng này lên việc tìm kiếm Nguyên vật liệu và Nhiên liệu năng lượngcủa Trung quốc ở châu lục này.
Chúng tôi nói đến hai điểm chính sau đây:
=> Việc khai thác Nguyên vật liệu và Nhiên liệu của Trung quốc như đi chiếm thuộc địa tại Phi châu.
=> Pháp đã can thiệp Quân sự tại Mali và khả năng nới rộng sang các vùng khác của Phi châu.
Việc khai thác Nguyên vật liệu và Nhiên liệu của TQ
như đi chiếm thuộc địa tại Phi châu.
Vào tháng 10/2012, nhân những dữ kiện trong một bài dài đăng trên tờ Le Monde Diplomatique, chúng tôi đã viết và nói qua Phỏng vấn của Đài RFI (Radio France Internationale) về tình trạng bí lối về Nguyên vật liệu và Nhiên liệu năng lượng của Trung quốc khiến nước này xâm nhập những nước Phi châu mà chính Au châu coi như việc Trung quốc đi kiếm thuộc địa.
Sự thiếu thốn Nhiên liệu tại Lãnh thổ Trung quốc
Các nước đã Kỹ nghệ hóa có sẵn Nguyên liệu và Nhiên liệu đã được khai thác từ lâu từ những cựu thuộc địa. Âu châu có Phi châu và Hoa kỳ có Nam Mỹ châu. Chính nội địa Hoa kỳ cũng có nguồn dự trữ nhiên liệu dầu lửa chưa khai thác: TexasAlaska. Các nước bắt đầu phát triển như Nam Dương, Nam Phi, Ba Tây, Úc châu đều có nguồn nguyên liệu và nhiên liệu dồi dào. Chỉ có Lục địa Trung quốc thiếu thốn nguyên liệu nhất là nhiên liệu dầu lửa. Nguồn nhiên liệu than đá đã bị khai thác lâu đời và hiện nay trang bị khai thác đã quá cổ và nhiều nguy hiểm.
Chính vì vậy mà việc Trung quốc phải đi tìm nguyên liệu và nhiên liệu từ nơi khác, nếu không nền Kinh tế bị ngưng trệ.
Tỉ dụ về việc tìm kiếm nhiên liệu và nguyên liệu tại Phi châu
với thài độ không chính đáng của Trung quốc
Kỳ họp thứ tư vừa rồi giữa Trung quốc và một số nước Phi châu là tại Bắc Kinh ngày 19.07.2012. Bị quốc tế công kích và mang mặc cảm đi lừa những nước nghèo để thu góm nhiên liệu và nguyên vật liệu, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã phải giả hình tuyên bố như sau:
«Trung quốc la nước lớn nhất trong những nước đang phát triển, và Phi châu, một lục địa gồm nhiều nước nhất. Nhân dân Trung quốc và nhân dân Phi châu nối kết với nhau bằng những tương quan đồng đều, bằng sự chân thực và tình hữu nghị, và đang hỗ trợ cho nhau trong việc phát triển chung. «
Cũng chính trong cuộc họp này tại Bắc Kinh, Tổng thống Nam Phi đã không ngần ngại tuyên bố lên sự thật của việc nối kết này. Ông tuyên bố :
«Việc Trung quốc cam kết giúp phát triển Phi châu chính yếu là để cung cấp cho mình những nguyên liệu«
Một số những tài liệu chứng minh rằng mục đích của Trung quốc là đi thâu gom nhiên liệu và nguyên vật liệu, bất chấp sự tôn trọng những gía trị nhân bản và dân tộc địa phương :
=> Điển hình là vụ Soudan mà Trung quốc đã vì nhiên liệu mà cung cấp võ khí và ủng hộ tại Liên Hiệp Quốc cho chế độ bạo tàn Al-Bachir.
=> Thống kê các nước Phi châu cho thấy rằng năm 2005, chỉ có 14 nước Phi châu có Bảng Cân Đối Thương mại dương. Những nước này là những nước sản xuất nguyên liệu và dầu lửa xuất cảng qua Trung quốc. Trong khi ấy, 30 nước có Bảng Cân Đối Thương mại âm. Đó là những nước không có dầu lửa và nguyên liệu nhưng bị tràn đầy những hàng may dệt, những đồ mỹ phẩm giả, những thuốc giả và những hàng rẻ tiền của Trung quốc.
=> Cách thế thâu tóm nguyên liệu và nhiên liệu là ủng hộ các chế độc độc tài, cho hối lộ những lãnh đạo nước này. Dân chúng địa phương không bao giờ được hưởng những món tiền vốn cung cấp bởi Trung quốc.
Không cần phải tìm hiểu cách thế thâu gom nguyên vật liệu và nhiên liệu tại Phi châu. Chúng ta cứ nhìn trường hợp Việt Nam thì thấy rõ mục đích của tình hữu nghị giữa Việt Nam và Trung quốc với những chữ vàng khè ! Hãy nghĩ đến vụ Bauxite Tây nguyên !
Những khó khăn lớn dần tại Phi châu và những nơi khác
Khi dân chúng mỗi quốc gia bị khai thác bắt đầu ý thức về việc Trung quốc cho hối lộ để lấy nhượng quyền khai thác hầm mỏ, thì những khó khăn bắt đầu cho mưu mô của Trung quốc.
=> Dân chúng các nước Phi châu nhìn việc thâu gom nguyên liệu và nhiên liệu của nước mình như sự bán đứng những tài nguyên của quốc gia cho Trung quốc bởi những nhà lãnh đạo độc tài.
=> Các nhà độc tài Phi châu bán tài nguyên quốc gia cho Trung quốc cũng phải lo sợ vì chính Tổng thống Nam Phi đã thẳng thừng tuyên bố ra cái thâm ý của Trung quốc.
=> Những cuộc Cách Mạng tại Bắc Phi và Trung Đông làm mất một số nước lớn cung cấp nhiên liệu cho Trung quốc
=> Ai cũng hiểu cái thái độ cố chấp ủng hộ của Trung quốc cho Tổng thống Syrie giết dân là do sự cố thủ của Trung quốc giữ lấy nguyên liệu và nhiên liệu của nước này.
=> Thái độ ủng hộ của Trung quốc cho chế độ hiện hành tại Iran cũng là do mục đích thâu gom nguyên liệu, nhất là nhiên liệu từ Iran.
=> Phi châu cũng là nguồn cung cấp nguyên liệu và nhiên liệu cho Hoa kỳ và nhất là cho Âu châu. Âu châu có mối liên hệ truyền thống với Phi châu, nên sự đối kháng của Âu châu có sức mạnh đánh bật Trung quốc ra khỏi Phi châu.
=> Kinh nghiệm của Nhật bản trước đây: Chính khi chúng tôi đã làm cố vấn Tài chánh cho nhóm Bongo tại Congo Brazyville cách đây 25 năm. Thời ấy,Nhật bản có phong trào đi mua nợ cho những nước nghèo, với mục đích nước này nhượng quyền khai thác nguyên liệu. Khi tôi làm cố vấn cho nhóm Bongo, thì một Công ty Nhật mua nợ và có nhượng quyền khai thác gỗ quý tại khu vực miền bắc Brazaville. Một cuộc Đảo chánh xẩy ra và tân Tổng thống thu lại nhượng quyền khai thác. Công ty Nhật phải cuốn gói ra đi.
Pháp đã can thiệp Quân sự tại Mali
khả năng nới rộng sang các vùng khác của Phi châu.
Bản Tin của Anh Vũ về can thiệp Quân sự vào Phi châu như sau :
Mali: Pháp đưa lục quân tham chiến, tây Phi chuẩn bị hỗ trợ
Anh Vũ
Sau các chiến dịch không kích bắt đầu từ ngày 11/01/2013, Pháp cho triển khai lực lượng trên bộ. Sáng hôm nay 16/1/2013, Bộ trưởng Quốc phòng Jean-Yves Le Drian thông báo lực lượng bộ binh Pháp đang tiến về phía bắc Mali. Hàng chục chiếc xe bọc thép cùng các đơn vị quân đội Mali đang tiến vào Diabaly, thành phố vừa bị quân Hồi giáo cực đoan chiếm giữ hôm thứ Hai đầu tuần.
Trên thực tế, quân đội Pháp vẫn đang hành động một mình và đang chờ các nước tây Phi gửi quân đến yểm trợ. Trong khi đó tại Bamako hôm nay chỉ huy quân đội các nước châu Phi mới nhóm họp để bàn việc triển khai quân.
Tuy nhiên, phải mất nhiều ngày nữa, các đơn vị quân đội của các nước tây Phi mới có thể tham gia vào chiến dịch của lục quân Pháp. Từ Bamako, thông tín viên RFI Serge Daniel cho biết thêm chi tiết về tình hình tại chỗ :
Lần đầu tiên với vai trò thực sự chủ đạo trong các chiến dịch quân sự đang diễn ra, Pháp đã cho triển khai binh lính trên bộ. Có ít nhất 30 xe bọc thép đã lên đường nhằm hướng tiến về miền trung của Mali. Một phần các thiết bị khí tài chiến đấu đã được chuyển về phía Diabaly, đang do các lực lượng thánh chiến Hồi giáo chiếm giữ.
Cách 30 cây số về phía nam Diabaly là Niono, đây là địa bàn quen thuộc với binh lính Pháp, đi cùng với họ có vài trăm lính Mali. Không quân Pháp đã tiến hành các cuộc oanh kích vào Diabaly nhằm làm suy yếu các vị trí của các chiến binh Aqami.
Để chuẩn bị tham gia vào các chiến dịch sắp tới tại thực địa, hôm nay tai Bamaki diễn ra cuộc họp các tư lệnh quân đội của các nước tây Phi (Cedeao). Đến lúc này, Nigeria đã thông báo trong tuần sẽ gửi 7 đơn vị đầu tiên đến Mali. Các nước khác như Benin, Burkina FasoNiger sẽ phải đẩy nhanh tiến độ gửi quân. Tổng số quốc gia châu Phi sẽ gửi đến Mali khoảng 3000 quân.
Chiến tranh mới bắt đầu. Vụ chiến binh Hồi giáo Al Quaida mới bắt một nhóm con tin tại Algérie gồm trên 40 người Tây phương như trả đũa lại việc can thiệp quân sự của Pháp khiến những nhà quan sát cho rằng cuộc chiến ở Phi châu :
=> Không thể hạn định tại Mali vì tại những nước khác, chiến binh Hồi giáo có thể bắt những nhóm con tin khác nữa.
=> Những nhóm con tin này phần lớn là những người không hẳn là Pháp, mà còn là những công dân của những nước khác tại Âu châu hoặc Mỹ.
Vì vậy cuộc can thiệp quân sự này không thể chấm dứt mau chóng và không chỉ hạn hẹp vào nguyên Mali mà còn liên quan đến nhiều nước khác tại Phi châu, cũng không chỉ hạn hẹp vào can thiệp của chỉ nguyên nước Pháp mà còn kéo theo những can thiệp khác từ những nước của Âu châu, thậm chí Hoa kỳ.
Chúng tôi sẽ theo rõi về thời gian kéo dài của chiến tranh cũng như việc lan rộng liên hệ chiến tranh để nhìn xem những Hệ quả nào lên những khai thác Nguyên vật liệu và Nhiên liệu năng lượng mà Trung quốc đã làm tại châu lục này.
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 17.01.2013