Saturday, March 30, 2013
Chiến Sĩ Trần Hồng ra đi về cõi Vĩng Hằng
Qúy Vị đã biết, Chiến Sĩ Trần Hồng không xa lạ gì với đồng hương Người Việt Tỵ nạn khắp năm châu, qua những pha rất ngoạn mục làm csvn phải điên đầu, Chiến Sĩ Trần Hồng một mình toan hạ bệ tượng Hồ Chí Minh trong một công viên cạnh Paris, tuy thất bại, nhưng đã làm csvn hết vía, và nhiều lần ông vào xịt sơn lên tượng Hồ, và một lần khác, ông mướn xe ủi đất lái đâm thẳng vào hang ổ csvn , ủi sập cổng toà đại sứ cộng sản Việt Nam tại Paris, lại một lần nừa làm csvn khiếp đảm, vụ này ông chỉ bị Pháp tù 28 ngày, lần khác trương cờ vàng ba sọc đỏ trên tháp Ép Phen, và tại Hoa Kỳ trương cờ vàng VNCH trên tượng Nữ thần Tự do tại Nữu Ước. Chiến sĩ Trần Hồng vừa từ trần lúc 20 giờ ngày 26-03-2013 tại Paris, Sự ra đi về cõi Vĩng Hằng của Chiến Sĩ Trần Hồng để lại tiếc thương và đau buồn cho Gia Đình cũng như người Việt tỵ nạn csvn tại Pháp cũng như khắp nơi trên thế giới. Clip vidéo này như là lời chia buồn và Thành Kính Phân Ưu cùng tang quyến và để Tưởng Niệm người Chiến Sĩ kiên cường đấu tranh chống bạo quyền cộng sản Việt Nam.
Friday, March 29, 2013
TÒA GIÁM MỤC BẮC NINH ĐÃ LÊN TIẾNG
Nguồn: Hội đồng Giám mục Việt Nam."Linh mục Nguyễn Quốc Hiếu"hay trò bịp bợm của Đài truyền hình Việt Nam
Trong chương trình thời sự tối 26/3/2013 vừa qua, với phóng sự “Các chức sắc Tôn giáo góp ý sửa đổi Hiên pháp”, Đài Truyền hình Việt Nam một lần nữa cho thấy sự dối trá đã trở thành căn bệnh không còn thuốc chữa.Sau khi Biên tập viên Đài Truyền hình Việt Nam “đặt vào mồm”các chức sắc tôn giáo tham dự câu nói dọn sẵn: “Hiếnđịnh vai trò lãnh đạo của Đảng là cần thiết”, trên màn hình xuất hiện một ngườiđược Truyền hình Việt Nam ghi chú là “Linh mục Nguyễn Quốc Hiếu, Chủ tịch Ủy ban Đoàn kết Công giáo tỉnh Bắc Ninh”.
Ngay sau khi chương trình kết thúc, nhiều người đã rất bức xúc gọi điện đến các linh mục thuộc giáo phận Bắc Ninh thì được cho biết tại giáo phận Bắc Ninh không có linh mục nào là Nguyễn Quốc Hiếu cả. Người đàn ông được Truyền hình Việt Nam “phong” cho làm linh mục thực chất là một giáo dân thuộc giáo xứ Xuân Hòa – Quế Võ, Bắc Ninh, hiện đang là Chủ tịch Ủy ban Đoàn kết Công giáo tỉnh Bắc Ninh – một cánh tay nối dài củađảng cộng sản.
Tòa Giám mục Bắc Ninh khẳng định và thông báoGiáo phận Bắc Ninh không có Linh mục nào tên là Nguyễn Quốc HiếuCác linh mục tham dự hội nghịhôm đó còn cho biết thêm, các ngài đã thẳng thắn đóng góp theo đúng tinh thần của Bản Nhận định và Góp ý của HĐGM Việt Nam, nhưng những gì là đóng góp tâm huyết, gây tức tối cho những người tổ chức buổi hội nghị góp ý hôm đó, thì đã bị Đài Truyền hình Việt Nam cắt bỏ.
Thật ra, việc Đài Truyền hình Việt Nam cắt xén, dựng chuyện nhằm lừa bịp người dân không còn là chuyện lạ nhất là đối với người Công giáo.Trong vụ việc Thái Hà, Đài Truyền hình Việt Namđã từng có thành tích lừa đảo khi bắt một “cựu chiến binh giả danh giáo dân” vàđặt vào miệng người này những lời bịp bợm:Có lẽ, đã tới lúc, Giáo phận Bắc Ninh và mọi người Công giáo cần mạnh mẽ lên tiếng về sự lừa đảo trắng trợn này của nhà cầm quyền mà đại diện là Đài truyền hình Việt Nam, thông báo cho toàn thể các Giám mục và giáo dân thuộc Giáo hội Công giáo Việt Nam biết rõ sự việc, bởi đây là một sự xúc phạm trắng trợn tới niềm tin tôn giáo.Nguồn: Linh mục Nguyễn Ngọc Nam Phong
Sunday, March 24, 2013
Cây chó đẻ chữa bệnh gan
Cây chó đẻ chữa bệnh gan
Khoa học đã chứng minh cây chó đẻ chữa bệnh viêm gan siêu vi B rất tốt. Tuy nhiên, khi sử dụng cây chó đẻ nên biết những cảnh báo cần thiết
Gọi là cây chó đẻ vì chó sau khi đẻ thường tìm lá cây này để 
ăn. Cây chó đẻ còn được gọi là chó đẻ răng cưa, diệp hạ châu (vì có hạt tròn xếp 
thành hàng dưới lá), diệp hạ châu đắng, diệp hạ châu ngọt... Cả hai loại diệp hạ 
châu ngọt  và đắng cùng họ thầu dầu (Euphorbiaceae).

Cây chó đẻ 
được trồng thành vùng dược liệu ở huyện Cát Tiên - Lâm Đồng 
Ảnh: TRẦN THANH
Ảnh: TRẦN THANH
Kháng virus viêm gan B
Cây chó đẻ có chứa nhiều chất thuộc nhóm hóa học khác nhau như flavonoit, 
alkaloid phyllanthin; các hợp chất hypophyllanthin, nirathin, phylteralin, 
tritequen, tamin, axit hữu cơ, phenol, lignam...  
Về dược năng, thí nghiệm 
về hoạt tính bảo vệ gan của cây chó đẻ cho thấy có tác dụng bảo vệ gan. Các thí 
nghiệm với kháng nguyên HbsAg chứng tỏ cây chó đẻ có tác dụng kháng virus viêm 
gan B. Đông y cho rằng cây chó đẻ vị ngọt, hơi đắng, tính mát, có tác dụng lợi 
tiểu, tiêu độc, sát trùng, thông huyết, điều kinh, thanh can, lương huyết, hạ 
nhiệt...; thường được dùng làm thuốc chữa các bệnh đau gan, thận, đường tiết 
niệu, đường ruột, bệnh chứng ở ngoài da. Tác dụng giải độc gan và chữa viêm gan siêu vi B chỉ mới được các nhà khoa học lưu ý từ những năm 1980 về sau. Nghiên cứu của các nhà khoa học Nhật Bản và Ấn Độ cho biết họ đã phân lập được những hợp chất trong cây diệp hạ châu có khả năng chữa bệnh viêm gan. Một báo cáo trên tạp chí Lancet vào năm 1988 cũng xác định tác dụng này. Theo đó, 2 nhà khoa học Blumberg và Thiogarajan đã điều trị 37 trường hợp viêm gan siêu vi B với kết quả 22 người âm tính sau 30 ngày dùng diệp hạ châu. Đối với viêm gan siêu vi, 50% yếu tố lây truyền của virus viêm gan B trong máu đã mất sau 30 ngày sử dụng loại cây này (với liều 900 mg/ngày).
Tiếp theo đó, một nghiên cứu tiến hành năm 1995 cho thấy cây chó đẻ có tác dụng lợi tiểu, giảm huyết áp tâm thu ở người không bị đái tháo đường và giảm đáng kể đường huyết ở bệnh nhân đái tháo đường.
Một số bài thuốc thông dụng
Dưới đây là một số cách trị bệnh từ cây chó đẻ.
- Chữa viêm gan B: Chó đẻ 30 g, nhân trần 12 g, sài hồ 12 g, chi từ 8 g,
hạ khô thảo 12 g, sắc (nấu) uống mỗi ngày 1 thang.
- Chữa viêm gan do virus: Diệp hạ châu đắng sao khô 20 g, sắc nước 3 lần. Trộn chung các nước sắc, thêm 50 g đường đun sôi cho tan, chia làm 4 lần uống trong ngày. Khi kết quả xét nghiệm HBsAg (-) thì ngừng thuốc.
- Chữa xơ gan cổ trướng thể năng: Diệp hạ châu đắng sao khô 100 g sắc nước 3 lần. Trộn chung nước sắc, thêm 150 g đường đun sôi cho tan, chia nhiều lần uống trong ngày (thuốc rất đắng), liệu trình 30 - 40 ngày. Khẩu phần hằng ngày phải hạn chế muối, tăng đạm (thịt, cá, trứng, đậu phụ).
- Chữa suy gan (do sốt rét, sán lá, lỵ amib, ứ mật, nhiễm độc): Diệp hạ châu (ngọt hoặc đắng) sao khô 20 g, cam thảo đất sao khô 20 g, sắc nước uống hằng ngày.
- Chữa bệnh chàm (eczema) mãn tính: Dùng cây chó đẻ vò, xát nhiều lần vào chỗ bị chàm, làm liên tục hằng ngày sẽ khỏi.
- Chữa sốt rét: Cây chó đẻ 8 g; thảo quả, dây hà thủ ô, lá mãng cầu ta tươi, thường sơn, dây gắm mỗi vị 10 g; bình lang (hạt cau), ô mai, dây cóc, mỗi vị 4 g, đem sắc với 600 ml nước còn 200 ml, chia uống 2 lần trước khi lên cơn sốt rét 2 giờ. Nếu không hết cơn, thêm sài hồ 10 g.
Tăng nguy cơ vô sinh?
Dưới đây là một số cảnh báo cần lưu tâm, dù chưa có nghiên cứu kiểm chứng.
Hiện trên thị trường có khá nhiều chế phẩm dùng điều trị viêm gan dưới các dạng của những cơ sở sản xuất có dùng dược liệu từ cây chó đẻ. Tuy nhiên, phần lớn nguyên liệu cây chó đẻ để sản xuất các chế phẩm này là từ nguồn hoang dại, trong khi một cây thuốc mọc ở vùng địa lý, thổ nhưỡng khác nhau có thể có hiệu quả điều trị khác nhau. Bởi vậy, người tiêu dùng cần chọn các sản phẩm có nguồn gốc rõ ràng, có số đăng ký của cơ quan y tế thẩm quyền cấp.
Mặt khác, có thông tin cho rằng người khỏe mạnh dùng cây chó đẻ uống hằng ngày sẽ dẫn tới xơ gan, teo gan. Bởi theo nguyên lý, khi mật không tiết ra (ở người có bệnh như viêm mật, tắc mật…) thì mới cần lợi mật và khi gan có vấn đề thì mới phải nhuận gan. Nếu không có bệnh mà lại uống cây chó đẻ hằng ngày là bắt gan và mật không có nhu cầu cũng phải tiết ra khiến các cơ quan này phải làm việc nhiều hơn nên dễ bị tổn thương, mất cân bằng và sinh bệnh.
Với tính đắng, hàn nên cây chó đẻ có tác dụng giải nhiệt. Người không bị 
nhiệt dùng vị thuốc này không những không giúp ích gì cho sức khỏe mà còn khiến 
cơ thể quá hàn. Dù chưa có nghiên cứu trên diện rộng để kết luận về việc gây vô 
sinh của cây chó đẻ nhưng theo lý thuyết đông y, khi cơ thể quá hàn thì khó thụ 
thai. Cây chó đẻ làm tăng tính hàn nên về lý thuyết, chúng tăng nguy cơ vô sinh. 
| 
 
200 ha cây chó đẻ chuẩn Viet 
GAP 
Thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, UBND huyện Cát 
Tiên - Lâm Đồng đã trồng cây chó đẻ trên một số diện tích nông nghiệp năng suất 
thấp. Trong năm 2011, mô hình sản xuất thử nghiệm cây chó đẻ lần đầu tiên được 
thực hiện với diện tích 1,5 ha (tại 2 xã Tư Nghĩa và Mỹ Lâm), năng suất đạt trên 
3 tấn/ha. Kết quả nghiên cứu cho thấy Cát Tiên rất thích hợp với cây chó đẻ. Qua 
phân tích hàm lượng dược chất trong cây chó đẻ ở Cát Tiên cho thấy niranthin: 
4,719 mg/g, hypophyllanthin: 2,998 mg/g, phyllanthin: 5,488 mg/g và tổng dược 
chất đạt 21,2%. 
Đến nay, huyện Cát Tiên đã triển khai chương trình ứng dụng 
nhân rộng sản xuất cây chó đẻ theo quy trình Viet GAP với diện tích 100 ha, đồng 
thời triển khai đề tài khoa học nghiên cứu sản xuất loại cây này. Huyện còn liên 
kết với Trung tâm Phân tích - Chứng nhận chất lượng Sở Khoa học - Công nghệ Lâm 
Đồng chế biến sản phẩm trà túi lọc Diệp hạ châu Cát Tiên. Đến năm 2015, Cát Tiên 
sẽ có 200 ha diện tích trồng cây chó đẻ theo quy trình Viet GAP để ổn định nguồn 
nguyên liệu.  
V.Hy 
 
 | 
Bác 
sĩ HOÀNG XUÂN ĐẠI
Tâm thư của một Bác Sĩ ( from VN )
Tôi đã thật sự xúc động khi đọc những dòng tâm huyết của BS Nguyễn Quý Khoáng , một đứa con Tây Ninh , vùng Cao Xá , một thầy thuốc Nhân Ái của Bệnh Viện Tây Ninh trước năm 1990 . Hiện nay BS Khoáng học đạo và tu tập theo nhóm Dược Sĩ Lê Thị Vui tại Saigòn... ....Tôi thiết tha yêu cầu các bạn Hải Ngoại phổ biến rộng rãi bức tâm thư nầy trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài ........
MỆNH LỆNH TỪ TRÁI TIM
( HAY TÂM SỰ CỦA MỘT TRÍ THỨC VIỆT NAM
TRƯỚC HIỆN TÌNH ĐẤT NƯỚC)
           Trước tình hình đất nước  ngày càng xuống dốc về xã hội, văn hoá, kinh tế, chính trị  v…v, nhất là tương lai Đất nước rất đen tối trước hoạ xâm lăng của Trung Quốc, là người trí thức Việt Nam, tôi tự thấy lương tâm bị cắn rứt khi cứ im lặng chấp nhận những điều chướng tai gai mắt diễn ra hàng ngày cũng như nghe những lời than vãn của đồng bào mình.
     Mục sư Martin Luther King có nói:
-“Kẻ nào chấp nhận cái ác mà không phản đối chắc chắn là tiếp tay cho cái ác lộng hành” (He who accepts evil without protesting against it is really cooperating with it) và
-“Cuộc đời của chúng ta bắt đầu chấm dứt khi chúng ta lặng thinh trước những  vấn đề sống còn” (Our lives begin to end the day we become silent about things that matter).
Tôi luôn tự hỏi mình: Nếu mọi người dân, nhất là các trí thức, vì sợ hãi cho bản thân và gia đình mình, cứ tiếp tục im lặng trước hiện tình của Đất nước thì tương lai Nước ta sẽ đi về đâu? Chắc chắn sẽ rất đen tối ! Trước lời kêu gọi của Nhà Nước cho phép dân chúng góp ý sửa đổi Hiến pháp 1992 đến tháng 9 năm 2013 tới, nếu một số đông trí thức vẫn lặng thinh thì xem như chúng ta chấp nhận bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp do Quốc hội đưa ra nghĩa là vẫn “rượu cũ trong bình mới”, nghĩa là “vũ như cẩn”, vậy trách nhiệm với Đất Nước của chúng ta ở đâu? Gỉa sử đến một ngày, Đảng CSVN trưng cầu ý dân kêu gọi sát nhập Việt Nam vào Trung Quốc, thì chẵng lẽ chúng ta vẫn cứ im lặng hay sao? Lúc đó, liệu chúng ta còn giữ được mạng sống,vợ con, nhà cửa và của cải không? Gương nước Tây Tạng còn sờ sờ trước mắt.
      Tôi đã cảm động đến rơi nước mắt khi nghe VIỆT KHANG hát bài “VIỆT NAM, QUÊ HƯƠNG TÔI ĐÂU?” và một trong những hình ảnh người dân đi biểu tình chống Trung Quốc trong những năm qua khiến tôi xúc động , nhất là hình một cô gái Việt Nam khóc trong tuyệt vọng. Tôi có cảm nghĩ như cô đang hết sức đau lòng khi thấy người dân Việt bày tỏ lòng yêu nước mà lại bị chính quyền do mình “bầu” lên ngăn cản, đạp vào mặt, bắt bớ, giam cầm…
Chính vì các lý do trên mà mặc dù rất ghét chính trị, tôi tự thấy không thể tiếp tục lặng thinh được nữa.Tôi mong muốn sự lên tiếng của mình sẽ đóng góp một phần nhỏ cho sự thay đổi của Đất nước, cho tương lai của các con cháu chúng ta. Thay đổi hay không là tuỳ theo Đảng và Nhà nước có thật lòng lo cho dân, cho Nước không? Còn nếu một ngày xấu trời nào mà Nước Việt chúng ta chịu chung số phận của Nước Tây Tạng thì tôi cũng tự thấy mình đã làm hết sức rồi và sẽ không thẹn với lương tâm trước khi nhắm mắt. Nếu có ngày đó thật thì quả là sống không bằng chết vì mất Tổ quốc là mất tất cả!
      Đối với tôi, cuộc đời chỉ có ý nghĩa khi mình sống có ích cho người khác. Chính vì lý do đó, mặc dù có giấy bảo lãnh đi Canada đoàn tụ gia đình năm 1982, tôi đã chấp nhận ở lại quê hương để làm công tác của một Thầy thuốc hầu xoa dịu bớt đau khổ của bệnh nhân cũng như đào tạo thêm các bác sĩ về X Quang, Siêu âm.Thành thật mà nói, đến giờ phút này, tôi chưa bao giờ hối tiếc về sự chọn lựa đó. Công tác tại Bệnh viện đa khoa Tỉnh Tây Ninh từ 1977 đến 1983 rồi tại Bệnh viện An Bình,Tp Hồ Chí Minh từ 1983 đến 2009 tổng cộng là 32 năm, tôi được mời vào Đảng CSVN 2 lần nhưng tôi đã từ chối vì không thích làm chính trị, không thích theo bất cứ một phe phái nào. Tôi chỉ thích làm chuyên môn và dạy học mà thôi.
       Cách đây không lâu, tôi đã ủng hộ Kiến nghị sửa đổi Hiến Pháp 1992 do 71 nhân sĩ  trí thức công bố ngày 19 tháng 1 năm 2013 tại Hànội với số thứ tự trong danh sách những người ký tên là 7035.Tôi biết khi làm việc này, tôi có thể gặp nhiều rủi ro nhưng không sao vì tôi đã sẵn sàng, đến chết là cùng chứ gì!
       Xưa kia, tôi đã chọn ở lại quê hương để phục vụ bệnh nhân và các thế hệ thầy thuốc trẻ, giờ đây, tôi nói lên chính kiến của mình để xây dựng và bảo vệ Đất nước vì đối với tôi, cuộc đời mỗi người như một quyển tiểu thuyết đầy đủ hỷ, nộ, ái, ố, quan trọng là quyển sách đó có hay không chứ không phải nó có dầy hay không!
       Nếu có một ngày tôi bị bắt, công an sẽ hỏi tôi (như đã từng hỏi những Bloggers, những người bất đồng chính kiến, những người biểu tình…) là ai đã xúi dục, cho bao nhiêu tiền…thì tôi đã có sẵn câu trả lời: Không ai có thể xúi dục được tôi, không ai mua chuộc được tôi mà CHÍNH LƯƠNG TÂM TÔI ĐÃ MÁCH BẢO, CHÍNH TRÁI TIM TÔI ĐÃ THÚC GIỤC TÔI LÀM THẾ!
       Cuối cùng, xin cầu mong đất nước Việt Nam  chúng ta được độc lập, tự do, hạnh phúc thật sự.
Đại Sứ Pháp ở Việt Nam Jean-Marie Mérilion: NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA
HLTL - Repost bài liên quan biến cố mất nước, nhân sắp đến tháng Tư đen, mùa Quốc Hận lại về...
Jean-Marie Mérillon
NGƯỜI ĐI KHÔNG MUỐN LƯU LẠI BẰNG CHỨNG
Đã đến lúc Đại Sứ Martin phải nói thật  với tôi: Nước Mỹ cần phải  làm gì vào những ngày sắp tới khi Phan Rang  thất thủ? Và Mỹ cần xác minh  thái độ đối với Dương văn Minh mới hôm qua vừa đòi Nguyễn văn Thiệu từ  chức. 
Ông Martin đã lưỡng lự rất nhiều rồi mới nói cho nước Pháp hay rằng  Hoa Kỳ sẽ bỏ rơi Miền Nam. Còn nước Pháp  thì muốn cố giữ Miền Nam bằng  một chánh phủ trung lập giả định, biết  rằng đó chưa hẳn là một liều  thuốc hồi sinh cho toàn thể chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa một cách công  hiệu, nhưng chẳng còn phương thức cấp cứu  nào phù hợp với tình thế lúc  đó. 
TỐI 18/4/75: 
Qua điện thoại, lần thứ nhất Ông Martin  mới nói ra ý định của Hoa  Kỳ. Đối với chính trường nước Mỹ thì chiến  tranh Việt Nam đã chấm dứt  sau Hiệp Định Paris năm 1973. Vấn đề còn lại là giải thể Hoa Kỳ tại Đông  Dương. 
Ông Martin muốn nhờ tôi làm trung gian chuyển đạt ý muốn của Mỹ cho phía Việt Cộng. Tôi bèn trả lời: 
- "Điều mà ông yêu cầu, tôi sẽ thõa mãn  cho ông 5 tiếng nữa nếu  không có gì trở ngại trong việc liên lạc. Tuy  nhiên tôi phải phúc trình  lên chánh phủ của tôi, vậy ông Đại Sứ gởi cho tôi một công hàm ủy thác  làm việc này."
- "Không thể được" người ta không muốn lưu lại bằng chứng. 
- "Như thế từ giờ phút này nước Pháp sẽ đãm nhận vai trò hòa bình cho Việt Nam theo chủ thuyết của Pháp." 
- "Chúng tôi cám ơn nước Pháp. Với tư cách cá nhơn tôi hoàn toàn  chống lại chủ trương của Hoa Kỳ dành trọn  quyền thắng trận cho Việt  Cộng." 
Sau đó chúng tôi chuyển sang phần tâm sự gia đình, hỏi thăm sức  khỏe bà Đại Sứ v.v... Đại Sứ Martin cho biết  nước Mỹ quá chán ngấy những  vụ đão chánh trước kia nên để cho ông Thiệu từ chức rồi ra đi hơn là  đão chánh. Vai trò của Nguyễn cao Kỳ không  còn cần thiết sau khi Hoa Kỳ  đã tặng phần thắng cho Việt Cộng. 
Ngày 30/4, trước 3 tiếng đồng hồ hạ cờ Hoa Kỳ sau 20 năm bay trên  vòm trời Việt Nam, Đại Sứ Martin gọi điện  thoại vấn an, chúc tôi ở lại  xứ sở này tiếp tục sứ mạng hòa bình, đồng  thời khuyến khích tôi "còn  nước còn tát." 
Công việc đầu tiên của tôi là liên lạc  với Phan Hiền trong trại  Davis (Tân sơn Nhất) cho biết chánh phủ Cách  Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt  Nam của Huỳnh tấn Phát muốn ấn định rõ thời hạn Mỹ rút quân khỏi Việt  Nam. Phan Hiền bèn hỏi lại tôi là nên ấn định vào ngày nào? Sự giàn xếp  người Mỹ ra đi cũng làm phiền phức tôi  không ít. Ông trưởng phòng CIA  xúi ông Tổng Giám Đốc Liên Đoàn Lao Công Việt Nam kiếm khoảng 20.000  người mặc quần áo nông dân biểu tình trước Tòa Đại Sứ Mỹ đòi Mỹ phải ở  lại giúp Việt Nam. Ông Trần quốc Bửu hứa  sẽ làm được, nhưng rồi chẳng  thấy biểu tình chi cả. CIA chưa muốn đi  vội, có vẻ muốn ở lại để tổ chức  phá rối cộng sản như họ đã từng làm ở ngoài Bắc sau Hiệp định Genève  1954. Trưởng phòng  thương mại Mỹ xin  gia hạn đến tháng 6 để giúp các hảng thầu,ngân hàng,  các nhà kinh doanh di tản các dụng cụ xí nghiệp, cơ xưởng máy móc về Mỹ.  Nhưng rồi Đại Sứ Martin nhận được lệnh của Tòa Bạch Ốc là người Mỹ và  tất cả những gì  liên hệ đến Mỹ phải rời khỏi Việt Nam chậm lắm là cuối  tháng 4/75. 
Đại tướng Pháp Vanuxem chạy chỗ này chỗ kia với thiện chí cố vấn  cho ông Thiệu phản công, nhưng vô ích. Tôi được thông báo Mỹ đã sắp xếp  ngày đi cho ông Thiệu đâu vào đó cả rồi.  Tướng Vanuxem, người từng chỉ  huy ông Thiệu, than thở với tôi: "Thiệu  "lủy" không nghe "moa", đánh  giặc theo kiểu Mỹ sẽ thua không còn một  mảnh đất để thương thuyết với  Việt Cộng." 
Ngày 18 tháng 4 chúng tôi xác nhận ngày di tản của Hoa Kỳ với Phan Hiền. 
Trước khi lập chánh phủ giả định, tôi  xét phản ứng của Nga Sô và  Trung Cộng. Nước nhiệt thành đầu tiên là  Trung Cộng. Thủ Tướng Chu ân  Lai điện cho Bộ Ngoại Giao Pháp là sẵn  sàng hợp tác với Pháp để xây dựng  một chánh thể trung lập tại Miền Nam  nếu có thành phần MTGPMNVN tham  dự. 
Tại Hànội, cuộc vận động với Đại Sứ Nga được xem là mấu chốt của  vấn đề. Nhưng Đại Sứ Nga, ông Malichev từ chối, nói rằng: "Chủ quyền xây  dựng chính thể Việt Nam do đãng cộng sản Bắc Việt quyết định. Ngoài  tình hữu nghị cũng như các sự giúp đở Việt  Nam, Nga chẳng có quyền hạn  gì cả." Lời tuyên bố đó giống như một kẻ ăn trộm nho bị bắt quả tang  rành rành mà vẫn cứ chối bai bải là mình chỉ  đi dạo mát trong vườn nho  mà thôi. Chẳng là vì chúng tôi có đủ  tin tức tình báo nói rõ có 5 vị tướng lãnh Nga  có mặt trong Bộ Chỉ Huy  chiến dịch Hồ chí Minh tại chiến trường Long  Khánh. Không lẽ các vị ấy  chỉ ngồi uống trà nói chuyện chơi với Văn  tiến Dũng hay sao? 
Toàn thể các nước Đông Nam Á lo ngại một nước Việt Nam độc lập dù  dưới một chánh thể nào trong tương lai. Đối  với họ, Việt Nam mãi mãi có  chiến tranh bao giờ cũng có lợi hơn một  Việt Nam hòa bình thống nhất.  Theo quan điểm đó, khối Đông Nam Á tán  thành Việt Nam được đình chiến  trong trung lập hơn là thống nhất trong độc lập. Quan niệm này lan rộng  cả Á Châu, đặc biệt là Nhật Bản, nước  Nhật sẽ hết mình đóng góp cho Đông  Dương trung lập. Duy có Nam Dương  cực lực phản đối. Nam Dương chưa  nguôi mối thù Trung Cộng đạo diễn cuộc đão chánh hụt năm 1965, nên bác  bỏ giải pháp đình chiến tại Việt Nam  có Trung Cộng tham dự. 
(Mãi đến năm 1978, tướng Suharto có gởi  cho tôi một bức thơ tỏ ý  hối tiếc là lúc đó chánh phủ ông đã có nhận  xét sai lầm về những ý kiến  của chúng tôi). 
Mao thì ghét cay ghét đắng Lê Duẫn thân  Nga, thành thử những điều  kiện Bắc Kinh đặt ra là phải hạ bệ đảng viên  thân Nga, cầm chân quân Bắc  Việt để dành cho MTGPMN tiến vô Sài Gòn. 
Thực ra nền trung lập đối với chúng tôi chỉ coi như tạm thời ngăn cản dòng nước lũ, cho Việt Nam Cộng Hòa tạm dung thân. 
Lời giao ước chánh trị khác hẳn với lời  giao ước ngoại giao. Bắc  Kinh chỉ giao ước bằng miệng là sẽ tìm cách  cản trở Bắc Việt chậm nuốt  Miền Nam, biện pháp quân sự coi như yếu tố cần phải có. (Rất tiếc chờ  mãi đến năm 1978 Trung Cộng mới dùng biện  pháp này để dằn mặt Việt Nam). 
Phần chúng tôi là phải đáp lời hứa là  thành lập chánh phủ liên hiệp  gồm 3 thành phần: Quốc gia, Đối lập, và  MTGPMN. Chu Ân Lai đưa ra một  danh sách: Trương như Tảng, Nguyễn thị Bình, Đinh bá Thi, thiếu tướng Lê  quang Ba, trung tướng Trần văn Trà,  ngỏ hầu làm lực lượng nồng cốt thân  Tàu trong chánh phủ hòa hợp hòa  giải dân tộc Việt Nam. Điều kiện họ đưa  ra thoạt nhìn thì không thấy có gì trở ngại, nhưng thực hiện lại vô  cùng khó khăn. Vì những người này  không có thực lực hay quyền hành gì  cả. Toàn thể quyền hòa hay chiến đều do Lê Duẫn nắm cả. Trên Lê Duẫn một  bực là Mạc tư Khoa. "Dường như  đã từ lâu phe quốc gia lẫn phe cộng sản  Việt Nam đều đã không có quyết định gì về số phận đất nước của họ". 
Móc nối với Trung Cộng thỏa thuận đâu  vào đó cả rồi, sáng ngày 22/4  tôi mời phái đoàn Dương văn Minh vào tòa Đại Sứ tiếp xúc với chúng tôi.  Phái đoàn này có nhiều nhân vật đang tập sự làm chánh trị, những kẻ  chuyên sống nhờ xác chết của đồng bào họ: Huỳnh tấn Mẫm, Hoàng phủ Ngọc  Tường, Ngô bá Thành, Ni sư Huỳnh Liên, Lý quý Chung, Vũ văn Mẫu, Hồ ngọc  Cứ v.v... Tôi thấy ông Dương văn Minh đã liên lạc quá vội với một thành  phần vô ích. Những khuôn mặt này Bắc  Việt chưa biết họ, còn hao công  giúp Bắc Việt thì chỉ có việc chưởi tầm bậy chế độ Việt Nam Cộng Hòa. 
Tôi đi ngay vào vấn đề hỏi chung trước  mặt mọi người là: "Chúng tôi  hết sức ủng hộ người Việt Nam thành lập  một chánh phủ hòa hợp hòa giải  dân tộc. Vậy trong những ngày sắp tới có những cuộc thương thuyết xảy  ra, quí vị có đồng ý nhận quí vị là đại  biểu các khuynh hướng chánh trị ở  Miền Nam không? Chiến tranh đang đến  hồi dứt khoát phải có kẻ thua  người thắng. Hãy cho chúng tôi biết,  chánh phủ quí vị tới đây sẽ thua  hay Việt Nam Cộng Hòa thua, hoặc  MTGPMN thua? " 
Huỳng tấn Mẫm cướp lời Dương văn Minh nói trước: 
- "Thưa ông Đại Sứ Pháp, cuộc chiến này Mỹ đã thua, tất cả người Việt Nam chúng tôi thắng trận." 
Căn cứ theo lời của Huỳnh tấn Mẫm, tôi đoán ngay hắn là một thứ  bung xung trước thời cuộc, háo danh, sẵn sàng  làm tôi mọi cho bất cứ chế  độ nào chịu cấp phát tước quyền cho hắn. Nếu biết khôn và khách quan  nhận định thì hắn phải nói như vầy: "Bọn phản  chiến Mỹ thua trận, và tất  cả người Việt Nam thắng trận trong một nền  hòa bình rơi nước mắt." 
Bà ni sư Huỳnh Liên nói nhiều lắm. Bà kể lể "tín đồ Phật Giáo bị  kềm kẹp từ 20 năm qua, nếu cộng sản thắng thì đó là lời cầu nguyện của  hàng triệu phật tử Việt Nam." 
Luật sư kiêm chánh trị gia Vũ văn Mẫu có vẻ già dặn hơn. Ông đặt  tiếng "nếu" ở mỗi mệnh đề để thảo luận. "Nếu"  chính phủ tương lai mà  trong đó có ông làm thủ tướng thì viễn ảnh hòa  bình sẽ nằm trong tầm tay  dân tộc Việt Nam v.v.." Ông cũng ngỏ lời cám ơn tôi dàn xếp thời cuộc  để lập ván bài trung lập tại Việt Nam. 
Đây là buổi thăm dò quan niệm, nhưng  những con cờ quốc tế đã gởi  cho tôi từ trước không có Huỳnh tấn Mẫm,  Ngô bá Thành, Huỳnh Liên, Vũ  văn Mẫu và Lý quý Chung. Tôi lễ phép mời  họ ra về, ngoại trừ đại tướng  Dương văn Minh để thu xếp nhiều công việc khác. 
Tiển ra tận thềm sứ quán, tôi có nói mấy lời để họ khỏi thất vọng sau này: 
- "Thưa quí vị, thiện chí thành lập tân  chánh phủ, điều đó không ai  chối cải công lao của quí vị. Tuy nhiên  thẩm quyền tối hậu giờ phút này  nằm trong tay Hànội. Nước Pháp chỉ làm  một việc có tính cách trung gian  hơn là chủ động'.
Mọi người trợn ngược tròng mắt nhìn tôi  hết sức ngạc nhiên. Ông Vũ  văn Mẫu nói nhỏ với tôi một câu bằng tiếng  Latinh; "Tôi muốn đi Pháp nếu  tân chánh phủ không được Hànội nhìn  nhận."
Khi trở vào, Đại tướng Dương văn Minh  ngồi đó chờ tôi, nét mặt sung  mãn, tự hào là đã nắm vững thời cuộc. Vừa nghe chuông điện thoại reo,  tùy viên giao tế của chúng tôi giới thiệu  người bên kia là Võ đông  Giang. Đường dây điên thoại viễn liên này kêu  qua tòa Đại Sứ Pháp ở Tân  gia Ba rồi cũng dùng đường dây này chuyển về Bộ Ngoại Giao Hànội. Tại  Hànội họ sẽ móc đường dây tiếp vận vô Nam để tiếp xúc với vị Tư lệnh  chiến dịch Hồ Chí Minh, vì ông này muốn gặp tôi có chuyện gấp. Tôi đồng ý  nhưng phải chờ hai tiếng đồng hồ nữa mới bắt xong đường dây như thế. 
KẾ HOẠCH THỨ NHẤT
Thành phần chánh phủ hòa hợp hòa giải  dân tộc, đồng chủ tịch là hai  ông Dương văn Minh và Trần văn Trà. Ba  phó chủ tịch là Vũ văn Mẫu,  Trịnh đình Thảo và Cao văn Bổng. Tổng  trưởng quốc phòng Phạm văn Phú.  Tổng trưởng ngoại giao Nguyễn thị Bình. Tổng trưởng tư pháp Trương như  Tảng. Tổng trưởng nội vụ Vũ quốc Thúc.  Tổng trưởng kinh tế Nguyễn văn  Hảo. Tổng trưởng thương mại Lê quang  Uyễn. Tổng trưởng tài chánh Trần  ngọc Liễng. Xen kẻ nhau nếu tổng  trưởng quốc gia thì Đổng lý văn phòng  là người của MTGPMN, và ngược  lại. Hội đồng cố vấn chánh phủ có: Nguyễn  hữu Thọ, Huỳnh tấn Phát,  Thích trí Quang, Lương trọng Tường, Hồ tấn  Khoa, Linh mục Chân Tín, Cựu thủ tướng Trần văn Hữu. 
Hai mươi bốn giờ sau khi công bố thành  phần chánh phủ, nước Pháp sẽ  vận động các nước Âu Châu, Á Châu và các  nước phi liên kết công nhận  tân chánh phủ hòa giải Việt Nam, làm chậm  lại bước tiến xe thiết giáp  Liên Xô mưu toan đè bẹp Sài Gòn. 
KẾ HOẠCH THỨ HAI
- "Thưa Đại tướng, ông Nguyễn văn Thiệu để lại quân đội này còn bao  nhiêu người? Hoa Kỳ để lại vũ khí nếu dùng được ở mức độ phòng thủ thì  đuợc bao lâu? 
Đại tướng Dương văn Minh trả lời là ông chưa nắm vững quân số vì hơn chín năm ông không có dịp biết các bí mật quốc phòng. 
- "Thưa Đại tướng, đại tá tùy viên quân  sự của chúng tôi sẽ phúc  trình cho đại tướng biết sau. Theo chúng tôi,  quân lực Việt Nam Cộng Hòa  còn đủ khả năng chiến đấu thêm 10 tháng nữa, nếu các nhà quân sự chịu  thay đổi chiến thuật từ quy ước sang du kích  chiến. Ngay từ bây giờ Đại  tướng còn 2 Quân đoàn. Phải dùng hai Quân đoàn này mặc cả cho thế đứng  của phía quốc gia. Tôi tung liền giải pháp trung lập đồng thời tạo áp  lực ngoại giao ngừng bắn 7 tiếng đồng hồ. Trong khi đó Đại tướng kịp  thời chỉnh đốn quân đội và chọn các tướng  lãnh có khả năng trường kỳ  phản công. Tôi tin tuởng Việt Nam Cộng Hòa  chưa thể thua và đích thực  Bắc Việt đang lúng túng chưa biết họ sẽ chiến thắng bằng cách nào đây. 
KẾ HOẠCH THỨ BA
Cùng lúc mời thành viên MTGPMN hợp tác  trong chánh phủ trung lập,  Đại Tướng tuyên bố sẵn sàng bang giao với  Trung Quốc và các nước theo  chủ nghĩa xã hội, dĩ nhiên trong đó có cả Liên Xô. 
Trung Quốc sẽ chụp lấy cơ hội này để cử  Đại Sứ đến Sài Gòn ngay sau  24 giờ cùng với tiền viện trợ 420 triệu Mỹ kim là tiền sẽ trao cho  Hànội mà nay trao cho chánh phủ hòa hợp hòa  giải dân tộc. Kế hoạch này  đánh phủ đầu Hànội bằng cách đưa đứa con  nuôi của họ là MTGPMN lên nắm  chính quyền (một lực lượng mà từ trước đến nay Hànội vẫn ra rã trước dư  luận là dân Miền Nam đứng lên chống  Mỹ, chớ Hànội không có dính dáng gì  hết). 
Đi từng bước, lần lượt tân chánh phủ sẽ lật lại từng trang giấy ký  ngưng bắn trong Hiệp Định Paris, giao cho  Trung Quốc cưỡng ép Hànội vào  bàn hội nghị nói chuyện ngưng bắn tức  khắc. 
Quả thật Trung Quốc muốn cứu sống MTGPMN để xây dựng ảnh hưởng của  mình tại Đông Dương. Phe quốc gia cũng muốn  cứu cấp Sài Gòn đừng lọt vào  tay cộng sản. Như vậy hai quan niệm cùng  có một mục đích, còn có thể  dàn xếp được là tốt hơn cả, vì đừng để cho  bên nào thắng. 
Tôi cũng thông báo cho ông Minh hay là  tôi đã liên lạc với thành  viên MTGPMN. Hầu hết đều tán thành giải pháp  giúp họ thoát khỏi vòng quỷ  đạo của Bắc Việt. Họ chạy theo HàNội là  muốn tiến thân sự nghiệp chánh  trị bằng con đường hợp tác với cộng sản, nếu giúp họ nắm được chánh  quyền Miền Nam thì phương tiện dùng cộng  sản Bắc Việt đã quá lỗi thời. 
Bà Bình từ đầu đến cuối đã hợp tác chặt  chẻ với chúng tôi. Thêm một  bằng chứng: 17 ngày sau khi Sài Gòn mất, bà Bình còn tuyên bố trước  Liên Hiệp Quốc dụng ý tống khứ đạo quân Bắc  Việt về bên kia Bến Hải:  "Miền Nam Việt Nam sẽ sinh hoạt trong điều  kiện trung lập 5 năm trước  khi thống nhất hai miền Nam Bắc." Các nhà  phân tích thời cuộc nói chỉ  cần 5 tháng Miền Nam sống dưới chánh phủ trung lập thay vì có diễm phúc 5  năm, có lẽ hòa bình Việt Nam sẽ ở trong hoàn cảnh thơ mộng tươi đẹp  rồi. Bà Bình bị thất sủng sau lời  tuyên bố đó. 
Nước Pháp sẽ trao 300 triệu quan chuyển  tiếp từ chế độ Việt Nam  Cộng Hòa giao cho tân chánh phủ để nuôi sống  giải pháp trung lập. Chúng  tôi sẽ quyên góp các nước bạn đồng minh Âu  Châu một ngân khoảng độ 290  triệu mỹ kim cho các chương trình viện trợ kinh tế, văn hóa, phát triển  nông nghiệp, nhân đạo v.v... tổng cộng  cũng gần bằng viện trợ của Hoa Kỳ  trước đây. 
Bấy nhiêu đó cũng đủ nuôi dưỡng tạm thời chánh phủ Dương văn Minh  Trần văn Trà, để rồi người quốc gia tranh thủ với cộng sản duy trì một  Miền Nam không nhuộm đỏ màu cờ. 
Đại tướng Dương văn Minh không nói chi  nhiều, ông lắng nghe tôi  trình bày cặn kẻ từng kế hoạch, và nói ông sẵn sàng thực hiện theo quan  điểm của chúng tôi. Ông chỉ nêu một câu hỏi  duy nhất: 
- "Dưới hình thức nào tôi thay thế cụ Trần văn Hương để thành lập nội các để thương thuyết với phía bên kia?" 
- "Thưa Đại tướng, cụ Trần văn Hương hôm qua vừa thảo luận với  chúng tôi là sẽ trao quyền chánh phủ Việt Nam  Cộng Hòa lại cho Đại  tướng, nếu Đại tướng có một kế hoạch không để mất  Sài Gòn." 
Sự thực từ lúc ông Thiệu tuyên bố từ chức, ông Minh đã nhiều lần  thúc hối chúng tôi tiến dẫn ông nắm chánh quyền ngay lúc ấy. 
Chúng tôi chưa nhận lời yêu cầu này. Chúng tôi chưa nhận lời yêu cầu đó vì chưa tiếp xúc được với thành phần MTGPMN. Hơn nữa ông Minh ra lãnh đạo guồng máy quốc gia không mang điều mà thế giới mong đợi sau khi Hoa Kỳ rút đi. Khi chúng tôi giới thiệu tướng Minh sẽ là nhân vật cho ván bài trung lập của Pháp tại Việt Nam thì cụ Trần văn Hương sửng sốt và tỏ vẻ phiền trách: "Nước Pháp luôn luôn bẻ nho trái mùa! Tưởng chọn ai chớ chọn Dương văn Minh, nó là học trò tôi, tôi biết nó quá mà. Nó không phải là hạng người dùng trong lúc dầu sôi lửa bỏng... Tôi sẽ trao quyền lại cho nó nhưng nó phải hứa là đừng để Sài Gòn thua cộng sản." Có sự hiện diện của ông Trần chánh Thành là người rất am tường thực chất cộng sản, chúng tôi giải thích với cụ là Bắc Việt rất sợ MTGPMN đoạt phần chiến thắng, công khai ra mặt nắm chánh quyền. Chúng ta nên nắm ngay nhược điểm của họ mà xoay chuyển tình thế. Nếu để một nhân vật diều hâu lãnh đạo, Bắc Việt sẽ viện cớ Việt Nam Cộng Hòa không muốn hòa bình rồi thúc quân đánh mạnh trong lúc quân đội chưa kịp vãn hồi tư thế phản công. Tạm thời dùng công thức hòa hoãn thôi.
Chúng tôi chưa nhận lời yêu cầu này. Chúng tôi chưa nhận lời yêu cầu đó vì chưa tiếp xúc được với thành phần MTGPMN. Hơn nữa ông Minh ra lãnh đạo guồng máy quốc gia không mang điều mà thế giới mong đợi sau khi Hoa Kỳ rút đi. Khi chúng tôi giới thiệu tướng Minh sẽ là nhân vật cho ván bài trung lập của Pháp tại Việt Nam thì cụ Trần văn Hương sửng sốt và tỏ vẻ phiền trách: "Nước Pháp luôn luôn bẻ nho trái mùa! Tưởng chọn ai chớ chọn Dương văn Minh, nó là học trò tôi, tôi biết nó quá mà. Nó không phải là hạng người dùng trong lúc dầu sôi lửa bỏng... Tôi sẽ trao quyền lại cho nó nhưng nó phải hứa là đừng để Sài Gòn thua cộng sản." Có sự hiện diện của ông Trần chánh Thành là người rất am tường thực chất cộng sản, chúng tôi giải thích với cụ là Bắc Việt rất sợ MTGPMN đoạt phần chiến thắng, công khai ra mặt nắm chánh quyền. Chúng ta nên nắm ngay nhược điểm của họ mà xoay chuyển tình thế. Nếu để một nhân vật diều hâu lãnh đạo, Bắc Việt sẽ viện cớ Việt Nam Cộng Hòa không muốn hòa bình rồi thúc quân đánh mạnh trong lúc quân đội chưa kịp vãn hồi tư thế phản công. Tạm thời dùng công thức hòa hoãn thôi.
Cụ Trần văn Hương thông cảm kèm theo lời thở dài tỏ ra mất tin  tưởng. Kế hoạch của chúng tôi vô tình đã đè bẹp  tin thần chống cộng sắt  đá của cụ. Theo cụ thì giải pháp hữu hiệu là bỏ ngỏ Sài Gòn, tổng động  viên những vùng đất còn lại để tiếp tục đánh  cộng sản. Chọn giải pháp  này sẽ đổ máu thêm, nhưng chiến tranh nào mà  không đổ máu, ít nhất Việt  Nam Cộng Hòa không thua một cách mất mặt. 
Mười năm sau tôi thấy kế hoạch của cụ Trần văn Hương đúng. Nếu lúc  bấy giờ các nhà lãnh đạo quân sự Miền Nam đừng bỏ chạy quá sớm, yểm trợ  cụ, thì có thể gở gạc được thể diện người Quốc gia Miền Nam. Tôi kính  mến cụ Trần văn Hương, người Việt Nam nhận xét cụ bất tài, già nua lẩm  cẫm, song chúng tôi thấy cụ là một người  Việt Nam trung tín, sống chết  cho lý tưởng, can đãm trước mọi tình  huống. Năm 1976, nghe cụ bị bệnh  nặng, thiếu thốn phương tiện chữa trị, chúng tôi yêu cầu Tổng lảnh sự  Pháp ở Sài Gòn vận động với nhà cầm  quyền HàNội cho cụ sang Pháp chữa  bệnh. HàNội còn cần Pháp làm giao điểm tuyên truyền chủ nghĩa xã hội, sẽ  không làm khó dễ trong việc cấp  giấy xuất cảnh, nhưng cụ từ chối, quyết  định ở  lại chết tại Việt Nam.  Chúng tôi vẫn nhớ lời cụ nói năm 1975: "Ông Đại  Sứ à, tui đâu có ngán  Việt Cộng, nó muốn đánh tui đánh tới cùng. Tui chỉ  sợ mất nước, sống  lưu đày ở xứ người ta. Nếu trời hại nước tui mất, tui  xin thề ở lại đây và mất theo nước mình." Cụ Trần văn Hương đã giữ lời  hứa. 
Đại tướng Dương văn Minh ra về, chúng  tôi hẹn gặp lại nhau. Trong  lúc này, về phía Việt Nam Cộng Hòa, chúng  tôi không quên nhắc nhở đại  tướng Dương văn Minh gấp rút tổ chức lại  quân đội, liên lạc thường xuyên  với tướng Nguyễn khoa Nam, khuyến khích vị tướng này giữ vững các vị  trí phòng thủ để còn một mảnh đất làm địa bàn ăn nói khi thương thuyết  với phía bên kia. Ngay lúc đó tôi biết  ông Dương văn Minh cách đây hai  ngày đã liên lạc với người em ruột là  thiếu tướng Dương văn Nhật, nhờ  môi giới để nói chuyện thẳng với Bắc  Việt. Vì hấp tấp, nông cạn, ông  tưởng em ông có đủ tư cách đại diện  cộng sản ngưng bắn tại Miền Nam. Từ  chỗ móc nối sai lệch, tình thế đã  xỏ mũi ông đến chỗ phá nát bấy hết kế  hoạch hòa bình  Việt Nam. 
(GHI CHÚ của dịch giả DHN: Dương văn  Nhật không phải là một thiếu  tướng mà chỉ là một thiếu tá thường, trực  thuộc MTGPMN nên không phải là  một nhân vật quan trọng. Cộng sản đã cho về liên lạc thường xuyên với  Dương văn Minh trước đó như là một liên  lạc viên xoàng để săn tin mà  thôi, và đã được lệnh kín đáo nằm luôn tại nhà Dương văn Minh từ khi  chúng tiến chiếm tỉnh Banméthuột. Có lẽ ông  Dương văn Minh muốn đưa em  ông lên hàng tướng vì lý do thể diện chăng?  Sau 30/4/75 mới là trung tá).
LÊ ĐỨC THỌ THÓA MẠ TÔI
Chuông điện thoại reo. Đầu dây bên kia tự giới thiệu: 
- "Chào ông Đại Sứ, tôi là B trưởng B2 đây."
Tôi chào lại và rất ngạc nhiên không  biết B trưởng B2 là nhân vật  nào. Thái độ thiếu lịch sự xã giao qua lời giới thiệu tên họ chức phận  bằng bí danh của đầu dây bên kia chứng tỏ họ coi thường chúng tôi. Tôi  gằn mạnh từng tiếng: 
- "Nếu đầu dây bên kia muốn trao đổi câu chuyện với tôi thì nên tỏ  ra lịch sự một chút. Khi tiếp xúc với một  nhà ngoại giao thì dù thù hay  bạn cũng vậy. Thưa ông B trưởng B2, chắc  ông thừa hiểu ông đang nói  chuyện với Đại sứ nước Pháp, và bắt buộc tôi phải cúp nếu ông không nói  tên họ, chức phận. Nguyên tắc của ngành  ngoại giao đối lập với ngành  gián điệp là không tiếp xúc với hạng người bí mật." 
B2 xin lỗi tôi liền khi đó, bảo rằng ông ta sợ CIA phát hiện sự có  mặt của ông ở Miền Nam trong lúc hoàn cảnh  chưa cho phép ông xuất đầu lộ  diện. Ông cũng rất phiền khi bị ép buộc  nói tên họ: 
- "Thưa ông Đại sứ, tôi là Lê đức Thọ, Tổng tư lệnh chiến dịch Hồ chí Minh." 
Thì ra là Lê đức Thọ, con người khuynh đão trong các cuộc hòa đàm  Paris. Tiểu sử Thọ từ năm 1937 chúng tôi có đầy đủ trong tay, duy tôi  chưa gặp mặt nên không nhận được giọng nói  qua điện thoại. Sau Tết Mậu  Thân, Phòng nhì Pháp đã có đủ tài liệu để biết Lê đức Thọ là Tổng chỉ  huy bộ máy chiến tranh tại Miền Nam. Y từ Nga trở về hồi tháng giêng  1975, và đi thẳng vào Nam trực tiếp chỉ huy  tổng tấn công Sài Gòn. Mà  Phòng nhì biết thì CIA cũng biết. 
Tôi nói:
Tôi nói:
- "Chào ông Tổng tư lệnh, qua vai trò  trung gian và với thiện chí  lớn lao nhất, nước Pháp hết lòng đứng ra  hòa giải các phe tranh chấp để  sớm đạt được một nền hòa bình tại Việt  Nam. Ông Tổng tư lệnh có cần gởi  đến chúng tôi những quyết định gì từ phía Bắc Việt nhằm tức khắc giải  quyết chiến tranh không? Chúng tôi sẽ chào mừng quyết định của quí vị.’ 
Thấy mình là kẻ chiến thắng trong canh bạc về sáng, Lê đức Thọ tố xả láng, không cần che đậy bề trái của sự thật nữa: 
- "Quyết định của đãng cộng sản chúng  tôi là đánh gục Mỹ, thống  nhất hai miền Nam Bắc, xây dựng nước Việt Nam theo con đường Mác xít Lê  nin nít". 
- "Thưa ông Tổng tư lệnh, đó là mục đích. Còn quyết định chấm dứt  cảnh cốt nhục tương tàn của người Việt,  chưa thấy đãng cộng sản Việt Nam  nói tới?" 
Lê đức Thọ hùng hồn giảng thuyết (chỗ này ông Mérillon không cho  biết Lê đức Thọ nói bằng tiếng gì, vì y nói  tiếng Pháp còn kém lắm): 
- "Thưa ông Đại sứ, tôi xin nói về chính danh và ý nghĩa cuộc chiến  đấu của chúng tôi. Sau khi đánh bại bọn đế quốc Pháp, đãng và nhân dân  chúng tôi tiếp tục sự nghiệp đánh bọn ngoại xăm đế quốc Mỹ. Cuộc chiến  đấu này từ lâu đã được nhân dân thống nhất  thành một phong trào chống  Mỹ. Từ ngữ "cốt nhục tương tàn" tôi bảo đãm  với ông đại sứ là do bọn tay  sai ngụy quyền Sài Gòn khơi lên để kêu gọi lòng thương hại của chúng  tôi, chớ không phải lời oán than từ phía  nhân dân. Xác nhận như vậy để  ông đại sứ thấy rằng chúng tôi chưa hề chính thức hóa một nghị trình hòa  giải nào với bất cứ đãng phái nào tay sai trong Miền Nam với quyết định  của chúng tôi là để thắng chớ không  phải để hòa giải." 
- "Thưa ông Tổng tư lệnh, trường hợp này thì vị trí của MTGPMN ở đâu?" 
- "Nó sẽ đứng ở chỗ giải tán khi: một là Đại sứ Mỹ bị bắt, hai là  cuốn cờ bỏ chạy trước khi người cộng sản yêu  nước tiếp thu Sài Gòn". 
- "Nếu đúng như thế, MTGPMN không phải  là một thực thể riêng biệt,  tách rời quyền lực HàNội đứng lên chống Mỹ từ 15 năm qua, và các ông đã  lừa gạt dư luận quốc tế." 
- "Thưa ông Đại sứ, dư luận quốc tế hả? Mà dư luận nào mới được  chớ? Nếu dư luận quốc tế thuộc khối tư bản thì  không xứng đáng để phẩm  bình. Đối với nước Pháp chúng tôi xem là bạn.  Thưa ông Đại sứ, chúng ta  sẽ bang giao trong tình hữu nghị giữa hai  nước."
- "Trung Quốc đang yêu cầu chúng tôi dàn xếp một cuộc đình chiến tại Việt Nam, ông nghĩ sao? 
- "Trung Quốc thuộc bọn xét lại, đã biến thể và phản bội nghĩa vụ  giải phóng nhân loại qua chủ nghĩa Lênin. Mọi việc nhúng tay vào của  Trung Quốc chúng tôi xem đó là hành động thù  nghịch. Riêng ông Đại sứ,  ngay bây giờ xin ông nhận lời cảnh cáo của  chúng tôi. Nếu ông Đại sứ còn  tiếp tay với Trung Quốc và các thế lực  ngoại bang khác ngăn cản đà  chiến thắng chống đế quốc Mỹ ở Miền Nam,  thì 24 giờ sau khi tôi đặt chân  vào Sài Gòn tôi sẽ trục xuất ông Đại sứ ra khỏi Việt Nam." 
- "Làm như vậy ông không ngại gây sự hiềm khích giữa hai nước sao?" 
- "Không, Chánh trị và quyền lợi không  chú ý tới những vấn đề nhỏ  nhặt giữa hai nước. Pháp còn quyền lợi tại  Việt Nam. Pháp đừng nên gây  hấn với Việt Nam bằng giải pháp trung lập  này nọ, cũng đừng nên chen vào  nội bộ của chúng tôi." 
- "Thưa ông Tổng tư lệnh, ông nên nhớ Pháp ngày hôm nay không phải  là Pháp đô hộ ngày hôm qua. Pháp chẳng có  quyền lợi gì nếu phải bang  giao với một nước Việt Nam cộng sản. Nếu ông cảnh cáo chúng tôi, bù lại  xin ông và đãng cộng sản Việt Nam tiếp nhận lời cảnh cáo của chúng tôi  là số tiền 300 triệu hằng năm viện trợ Miền Nam và 200 triệu viện trợ  nhân đạo cho Bắc Việt sẽ không được chuyển  giao nếu giải pháp trung lập  bị bác bỏ một cách vô nhân đạo." 
Lê đức Thọ có vẻ căm tức, nhưng lần này vì lịch sự, y nói vài lời cáo lỗi rồi cúp điện thoại, đúng với ý muốn của tôi.
Thật ra chúng tôi cũng vẫn biết cuộc  chiến tranh này do tập đoàn  HàNội quản lý từ đầu đến cuối, nhưng không  trắc nghiệm được phản ứng  ngang tàng của họ mà đại biểu chánh thức là  Lê đức Thọ, nhất định nuốt  Miền Nam bằng lá bài quân sự.
Sự kiện này đã khuyến khích tôi tìm kiếm những phương pháp cấp thời  chỉnh đốn lại quân đội Việt Nam Cộng Hòa  giữ vững phòng tuyến để kéo  dài thời gian mặc cả.
Tôi rất ghét người cộng sản thiếu quân  tử (đó là cái chắc!) khi họ  thắng trận. Lê đức Thọ là một điển hình.  Năm 1964 Thọ đã từng xin chúng  tôi giúp y nói chuyện trực tiếp với Hoa  Kỳ, chúng tôi không hề từ chối.  Bất cứ điều gì cần đến, nếu thỏa mãn được thì chúng tôi cho ngay. Họ có  mang ơn nước Pháp chớ nước Pháp chưa hề chịu ơn họ. Đến khi nước Pháp  muốn Việt Nam có hòa bình trên nền  tảng trung lập có thành phần quốc gia  tham dự, HàNội đã bạc ơn từ chối.
Khi xe tăng Nga vượt hàng rào Dinh Độc  Lập lúc 11 giờ sáng thì tới 3  giờ chiều Lê đức Thọ ngồi trên xe Falcon đến tòa Đại Sứ Pháp xấc xược  đi thẳng vô phòng tôi nói:
- "Mérillon, tôi đến đây tống cổ ông rời khỏi Sài Gòn trước 9 giờ sáng mai". 
Tôi gật đầu. Sáng hôm sau ngày 1-5-75,  Thọ còn hạ nhục tôi bằng  cách cho công an xét va li và bắt tôi phải ra  HàNội trước khi về Pháp.  Tôi phản đối. Khi phi cơ cất cánh, tôi ra lệnh cho phi công bay luôn  sang Bangkok thay vì ra HàNội.
Hành động sỉ nhục một Đại sứ, Lê đức Thọ và công an Việt Nam phải  trả một giá rất đắt. Tổng số ngân quỷ viện  trợ nhân đạo hằng năm nước  Pháp quyết định để dành mua sinh mạng người  Miền Nam Việt Nam không hề  cho HàNội một cắt nào suốt 10 năm sau.
Ngày 27 tháng 4/1975
Chiều ngày 27/4/75, tôi nhận được tin  rất phấn khởi: Tướng Trần văn  Trà bắn tin nhờ tôi cấp tốc thành lập  chánh phủ trung lập và ông gởi  gấp hai nhân vật thân tín của ông vào  chánh phủ, là bà Nguyễn thị Bình  và ông Đinh bá Thi (ông này bị HàNội  giết vài năm sau bằng tai nạn xe  hơi tại vùng Rừng Lá Phan Thiết, sau  khi bị Hoa Kỳ trục xuất về tội mua  tài liệu tình báo kỹ thuật cho Liên  Xô - Lời dịch giả). Tùy viên quân sự  của chúng tôi cũng xác nhận là 2  sư đoàn tập kết của Trần văn Trà sẽ  vào tiếp thu Sài Gòn, phỏng tay  trên của đạo quân Văn tiến Dũng. 
CÁC TƯỚNG LÃNH BỊ NHỐT TẠI BỘ TỔNG THAM MƯU 
Chứng cớ mà Trần văn Trà lấn quyền HàNội trong mưu đồ Miền Nam tự  trị được thể hiện ngay sau ngày 30/4/75. Trần văn Trà chạy nước rút, tự ý  thành lập Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn Gia Định hầu làm bàn đạp cho MTGPMN  nhảy lên nắm chánh quyền trước khi Bắc  Việt an bài chế độ cộng sản.  Chung một mục đích: Bắc Việt đoạt chánh  quyền để bành trướng chủ nghĩa  cộng sản, còn MTGPMN cướp chánh quyền  với thâm ý tạo sự nghiệp danh vọng  cá nhân. HàNội có Nga Sô làm điểm  tựa, có toan tính theo từng sách  lược, còn MT là những chánh trị gia  thời cuộc có tính cách giai đoạn nên  cuối cùng bị thua trắng tay, bị cưỡng bức phải giải tán, cán bộ bị hạ  từng công tác (hay thanh trừng)  trong thầm lặng. 
Dựa theo quan niệm "còn nước còn tát",  chúng tôi không bỏ lở một cơ  hội nào có thể duy trì nhịp thở của Việt  Nam Cộng Hòa đang hấp hối vào  giờ cuối của cuộc chiến. Lúc 9 giờ tối  ngày 27/4/75, chúng tôi họp với  các tướng lãnh De Séguins, Pazzi,  Bigeard, Langlais, Vanuxem, Gilles,  Pierre Bodet. Các tướng này đến Sài Gòn ngày 16/4 trong hảo ý phối hợp  với các tướng lãnh Việt Nam từng được Pháp đào tạo trước kia để phản  công lại Bắc Việt. Họ đến với tư cách cá nhân. 
Qua lời xác nhận của tướng Gilles, chỉ huy quân đoàn nhảy dù Pháp  trong trận Điện biên Phủ, thì thiếu tuớng  Phạm văn Phú không phải thuộc  hàng tướng lãnh bỏ lính khi thua trận và  chạy dễ dàng như vậy. Tướng  Gilles yêu cầu tôi can thiệp với chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa trả tự do  cho tướng Phú lúc đó đang bị ông Thiệu nhốt chung với các tướng lãnh  khác trong Bộ Tổng Tham Mưu. Ông Thiệu đã làm một việc quá nguy hiểm.  Đang lúc quân đội cần tướng mà tướng lãnh bị tống giam, như vậy là có ác  ý đập tan nát Bộ Tham Mưu Hành Quân của  Việt Nam Cộng Hòa. 
Ngày 29/4, tướng Phú nằm trong bệnh viện Grall. Tôi điện thoại trấn  an ông, yêu cầu ông đừng bỏ đi sẽ tạo thêm  tình trạng hỗn loạn hoang  mang cho binh sĩ. Ông hứa sẽ không bỏ chạy,  nếu không phản công giữ được  Sài Gòn thì ông thề bỏ xác tại bệnh viện  này. Tướng Phú đã giữ lời hứa.  Ông là một tướng lãnh mà chúng tôi hết  sức tin tưởng trong ván bài  trung lập sau Dương văn Minh. Tối 29/4, được tin Dương văn Minh sẽ đầu  hàng cộng sản vào sáng mai, ông đã dùng độc dược tự sát. 
Các tướng lãnh Pháp cũng đề nghị tôi thực hiện kế hoạch bỏ trống Sài Gòn qua 2 giai đoạn: 
- Giai đoạn 1.- Rút phân nữa quân gồm  lực lượng tự vệ, an ninh,  cảnh sát, những binh đoàn nhảy dù, thủy quân  lục chiến, biệt động quân,  và các binh chủng thuộc bộ binh, lén di  chuyển lúc nửa đêm, sau lưng  cộng sản đi lên các tỉnh Bình Dương, Tây  Ninh, Phước Long, với nhiệm vụ  tái phối trí lực lượng và bồi dưỡng tinh thần binh sĩ. 
Phân nữa kia, gồm Hải quân và Không quân di chuyển về miền Tây để  dùng cho các trận chiến sông ngòi, cắt đường  tiến của cộng sản tràn  xuống Quân khu 4. Mời hai tướng Dương văn Minh  và Trần văn Trà công bố  chánh phủ trung lập. Sài Gòn là vùng phi quân  sự nơi chỉ nói chuyện,  thương thuyết bằng giải pháp chánh trị. Sài Gòn  không có quân, cộng sản  không có cớ đễ tàn phá. 
- Giai đoạn 2.- Phản công trên cơ sở du  kích, chiếm lại lần hồi đất  đai đã mất và chờ quân viện mới. Thay thế chánh phủ trung lập bằng một  chánh phủ lưu vong Việt Nam Cộng Hòa. Vai  trò Dương văn Minh đến đây coi  như chấm dứt. Các tướng Phạm văn Phú,  Nguyễn khoa Nam, Lê nguyên Vỹ,  Ngô quang Trưởng được xem là thành phần  chủ lực cho chiến trường tương  lai. 
Các tướng lãnh hồi hưu Pháp quả quyết sẽ tìm được nguồn quân viện  chẳng mấy khó khăn, qua sự đóng góp của các  cựu quân nhân Anh, Pháp, Hoa  Kỳ, Do Thái... nếu có lời kêu gọi của Hiệp Hội Cựu Quân Nhân Thế Giới  Tự Do. 
Sáng ngày 28/4/75, tôi chuyển hết kế hoạch này cho Dương văn Minh và định tối 28 thì sẽ hoàn tất kế hoạch. 
KẾ HOẠCH CHƯA ĐƯỢC THỰC HIỆN? 
Đại tá tùy viên quân sự của chúng tôi trình bày tỉ mỉ về quân số của đôi bên. 
- Quân cộng sản Bắc Việt hiện đang bao  vây Sài Gòn gồm các sư đoàn  304, 308, 312, 320, 322, 325 và 2 sư đoàn  MTGPMN, 300 thiết giáp, 600  đại bác đủ loại. Tổng cộng quân số khoảng  70.000, tính cả lực lượng trừ  bị. Đúng như lời Trung Quốc thông báo,  HàNội tung hết quân, bỏ ngỏ  HàNội. Giá lúc ấy Trung Quốc chỉ cần cho  một vài sư đoàn diễn binh trên  biên giới Hoa Việt thì lập tức HàNội sẽ tự ý ngưng chiến và tán thành  chánh phủ trung lập rất mau lẹ. Rất  tiếc. 
- Quân số Biệt khu Thủ đô có khả năng  tác chiến, có vũ khí trong  tay ước được 100.000. Căn cứ vào vũ khí đạn  dược, hỏa lực nặng, tiếp  liệu, và tinh thần chấp nhận chiến đấu thì Sài Gòn có thể phòng thủ, cầm  cự được chừng 7 tháng. 
Trong 7 tháng đó biết đâu tình hình lại  chẳng thay đổi theo chiều  hướng khác? Chúng tôi đưa ra sự kiện này nhằm bác bỏ lập luận nói rằng  cộng sản Việt Nam sẽ thiêu hủy Sài Gòn với số quân gấp 5 lần. 
Kinh nghiệm bọn Khmer Đỏ chiếm Phnom  Penh ngày 17 tháng 4/75, đã  xảy ra tình trạng chém giết hỗn loạn nguy  hiểm đến sinh mạng Pháp kiều  và các phóng viên ngoại quốc, cần Tòa Đại  sứ Pháp che chở. Vì vậy ngày  19/4/75 tôi đã yêu cầu Bộ Ngoại Giao Pháp  tăng phái cho chúng tôi một  trung đội thủy quân lục chiến từ Nouvelle  Calédonia đến Sài Gòn để bảo  vệ sứ quán. Lại yêu cầu các vị Lãnh Sự ở  Đà Nẵng, Cần Thơ, Đà Lạt, Huế  gấp rút kiểm tra lại tổng số Pháp kiều,  và phải tiếp tục ở lại nhiệm sở  để trấn an dư luận. Khi đó có 722 người là người Pháp chính gốc, 9500  người có quốc tịch Pháp, 11.000 trẻ em  lai Pháp sống tại các cơ quan từ  thiện. Tất cả 21.000 người này sẽ được đưa về Pháp định cư. Tuy nhiên để  cứu thêm mạng người,  chúng tôi sẽ gởi cho HàNội danh sách đăng ký cho hồi hương thêm những  người hồi tịch Pháp, cựu quân nhân tham dự bên cạnh quân đội Pháp trong  hai thế chiến, công chức thời Pháp và nhân viên làm việc trong các cơ sở  tư nhân Pháp trên lãnh thổ Việt Nam. Mỗi người hội đủ điều kiện như vừa   quy định có thể kéo thêm gia đình anh em ruột thịt, con cháu dâu rể bên  ngoại cũng như bên nội. Kết quả chúng tôi đem về Pháp tất cả 80.000   người. Để mua thêm người cộng tác với Pháp, mỗi năm chánh phủ Pháp phải  trả cho cộng sản máy cày, dược phẩm, các bộ phận bảo trì công ty nhà  đèn, thủy cục, nông phẩm v.v... 
Chiều 28/4, tướng Pazzi xuống Cần Thơ gặp tướng Nguyễn khoa Nam.  Sau đó khi trở về tướng Pazzi cho biết miền  Tây rất khả quan, chỉ có  quốc lộ 4 tạm thời bị cắt đứt. Tướng Nguyễn  khoa Nam đã hai lần yêu cầu  ông Dương văn Minh cho phép ông đem quân  giải tỏa Quốc lộ 4, phản công,  nhưng Dương văn Minh dặn đi dặn lại mấy  lần là đừng phản công mạnh, tạm  thời ở tư thế chờ, để ông tìm giải pháp chánh trị tại Sài Gòn. Tướng Nam  than thở với tướng Pazzi: "Nếu tôi đánh mạnh là bất tuân thượng lệnh,  nếu tôi đánh nhẹ thì tinh thần binh  sĩ mất hết. Đến giờ này mà bức màng  chánh trị còn bịt mắt quân đội. Ông nói lại với tướng Minh giùm là nước  tràn bờ mà không cho đắp đê ngăn  lại! Ông làm chứng giùm tôi: Quân đoàn 4  chúng tôi không  thua. Chính  trị Sài Gòn đã trói tay chúng tôi bắt buộc chúng tôi phải  thua." 
Sáng ngày 30/4/75, sau khi nghe Dương  văn Minh đọc bản "trao nước  cho giặc", tướng Nguyễn khoa Nam cùng nhiều tướng lãnh liêm sĩ khác đã  chọn câu nói của Voltaire để giữ danh dự của người làm tướng; "Còn giữ  được danh dự là chưa mất mát nhiều." 
Trời đã vào đêm rồi. Đại bác, súng liên  thanh nổ gần hơn. Làn sóng  người ngơ ngác tìm đường chạy trốn cộng sản  nghẹt cứng cả thành phố. Ông  Đại tướng Dương văn Minh đâu? Tướng Trần  văn Trà đâu? Tại sao những  người này không xuất hiện để thành lập chánh phủ liên hiệp? Tôi tự hỏi  như thế. 
Tôi lo lắng, gọi điện thoại về nhà ông  Dương văn Minh. Người trả  lời là trung tá Đẩu, chánh văn phòng: "Dạ thưa ông Đại sứ, Đại tướng  chúng tôi hiện đi lên Xuân Lộc thương thuyết với người phía bên kia." 
Bỗng nhiên đầu óc tôi căng cứng từng  mạch máu, tay chân bủn rủn.  Ông Minh lên Xuân Lộc có nghĩa là gặp trực  tiếp thượng tướng Lê đức Anh,  phụ tá Văn tiến Dũng, nơi đây đang có mặt Lê đức Thọ. Tức là ông Đại  tướng đi thẳng với phe Bắc Việt. Ông Minh đi trên tư thế nào? Quân không  có, quan cũng không, chánh phủ chưa có  gì hết. Như vậy chỉ là đi đầu  hàng Bắc Việt. Công việc này không cần đến một Đại tướng! Trao cho một  em bé đánh giầy 10 tuổi cũng làm được. 
Cái hướng mà ông Minh cần đi là hướng Củ Chi, nơi thượng tướng Trần văn Trà đang chờ... Chờ đến kiếp sau! 
Những gì mà ông Minh hứa với chúng tôi đã như nước đổ lá khoai. Bao  nhiêu kế hoạch, bao nhiêu công trình vận động, phút chốc ông Minh làm  tiêu tan hết. Lại còn dối gạt các tướng  lãnh yêu nước khác, gây ra sự  chậm trễ phản công giờ chót, bởi đa số  đều tưởng ông Đại tướng có phép  lạ, sáng chế được công thức ngưng bắn  tại chỗ để phe quốc gia không bị  thua trong nhục nhã. 
Thâm ý của ông Minh là muốn đầu hàng, sau đó ngồi ăn, hưởng cho đến già. 
(Lời dịch giả D.H.N.: Thật đúng như ông  Mérillon đã nói, từ ngày  30/4/1975 cho đến ngày nay 1996, Dinh Hoa Lan  của ông Minh không mất một  chiếc đũa, không mất một cành hoa, một bụi  cỏ nào. 
Khi ông rời Việt Nam để đi định cư ở Pháp với toàn bộ gia đình, ông được tự do mang theo bất cứ thứ gì ông muốn, từ những món đồ cổ đến những kỹ vật, thượng vàng hạ cám... cộng sản phải dùng mấy xe vận tải đưa các thùng tài sản của gia đình ông xuống bến tàu cho ông. Dinh Hoa Lan ở đường Testard, bất động sản riêng của ông được ông giao cho trung tá Khử giữ gìn và quản lý, đến giờ này không một tên cộng sản nào dám đụng đến. Trung tá Khử hiện là chủ một vườn trồng lan tại Thủ Đức, cuối thập niên 80 là tổng thơ ký của Hội Hoa Lan Việt Nam ).
Khi ông rời Việt Nam để đi định cư ở Pháp với toàn bộ gia đình, ông được tự do mang theo bất cứ thứ gì ông muốn, từ những món đồ cổ đến những kỹ vật, thượng vàng hạ cám... cộng sản phải dùng mấy xe vận tải đưa các thùng tài sản của gia đình ông xuống bến tàu cho ông. Dinh Hoa Lan ở đường Testard, bất động sản riêng của ông được ông giao cho trung tá Khử giữ gìn và quản lý, đến giờ này không một tên cộng sản nào dám đụng đến. Trung tá Khử hiện là chủ một vườn trồng lan tại Thủ Đức, cuối thập niên 80 là tổng thơ ký của Hội Hoa Lan Việt Nam ).
Ngày 29/4/1975, 8:00 giờ tối, sau khi  nhận lãnh chức Tổng Thống do  cụ Trần văn Hương bàn giao lại, ông Minh điện thoại xin lỗi chúng tôi,  bày tỏ sự hối tiếc đã không hợp tác được  với chánh phủ Pháp. Cách duy  nhất mà ông phải chọn là đầu hàng Bắc Việt mới mong cứu sống được thủ đô  Sài Gòn. 
Tôi lạnh lùng trả lời một câu duy nhất: 
- "Thưa Đại tướng, chúng tôi cũng rất  lấy làm tiếc. Giờ cuối cùng  của chiến tranh Việt Nam cần có một người  lãnh đạo cương quyết, dám dấn  thân, nhưng chúng tôi lại đi chọn lầm một bại tướng." 
Tôi cúp điện thoại ngay, và từ 10 năm qua tôi không hề và cũng không muốn liên lạc với ông ta nữa. 
NGÀY 1 THÁNG 5
Lúc phi cơ xoay qua một độ nghiêng, lấy  hướng qua Bangkok, tôi nhìn  xuống Sài Gòn lần chót. Tự nhiên trong lòng tôi dâng lên một niềm ngậm  ngùi thương tiếc tất cả những gì đang xảy  ra dưới đất. Tôi như người bại  trận, hay nói cách khác, tôi xin được  làm bạn với người bại trận, một  người bạn đã không chia xẽ mà còn bắt  buộc Việt Nam Cộng Hòa phải gánh  chịu hết tất cả... trong những ngày  sắp tới. 
Việt Nam và tôi có rất nhiều kỹ niệm, có quá nhiều quan hệ mật  thiết suốt đời không phai lạt. Sống ở Việt Nam  lâu năm, tôi cảm thấy  thương xứ sở này. Tội nghiệp cho họ, họ có thừa khả năng dựng nước, nhưng cái quyền làm chủ quê hương đã bị các cường quốc chuyền tay nhau định đoạt.  Tôi xin lỗi người Việt Nam. Tôi đã làm hết sức mình nhưng không cứu  vãn  được nền hòa bình cho dân tộc Việt. Vĩnh biệt Sài Gòn, Sài Gòn vẫn  hồn  nhiên với những mạch sống dạt dào ơn nghĩa, một khi đã chọn bạn hữu thâm  giao. 
Năm 1979, Đại sứ Võ văn Sung có thư mời  tôi trở lại thăm Sài Gòn.  Tôi từ chối với lý do không quen với cái tên  Hồ chí Minh. Sài Gòn đã  mất, tôi trở lại đó thăm ai? Ở đời có khéo lắm  cũng chỉ gạt được người  ta lần thứ hai, làm sao lừa dối được người ta  lần thứ ba? 
Người cộng sản giả bộ ngây thơ (ở một khía cạnh nào đó) nên tưởng nhân loại cũng đều ngây thơ như họ. Liên tục nói dối hàng bao nhiêu năm, tưởng như vậy quần chúng sẽ nhập tâm tin là thật. Họ lầm. Nói láo để tuyên truyền chỉ có lợi trong chốc lát, nhưng về lâu về dài thì chân lý của loài người sẽ đè bẹp họ. Ngày xưa Liên Xô đã xiết chặt sai khiến họ, dùng Việt Nam làm phương tiện đóng góp cho Nga. Họ có muốn thoát ly, có muốn nhờ Tây Phương tháo gở cho họ cũng không được nữa, vì đã từng phạm lỗi lớn là đã lường gạt Tây Phương…
Người cộng sản giả bộ ngây thơ (ở một khía cạnh nào đó) nên tưởng nhân loại cũng đều ngây thơ như họ. Liên tục nói dối hàng bao nhiêu năm, tưởng như vậy quần chúng sẽ nhập tâm tin là thật. Họ lầm. Nói láo để tuyên truyền chỉ có lợi trong chốc lát, nhưng về lâu về dài thì chân lý của loài người sẽ đè bẹp họ. Ngày xưa Liên Xô đã xiết chặt sai khiến họ, dùng Việt Nam làm phương tiện đóng góp cho Nga. Họ có muốn thoát ly, có muốn nhờ Tây Phương tháo gở cho họ cũng không được nữa, vì đã từng phạm lỗi lớn là đã lường gạt Tây Phương…
Sau hết,  chế độ Việt Nam Cộng Hòa  thua, nhưng thật ra người Việt Nam chưa thua  cộng sản. Trận chiến chưa  chấm dứt vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. 
Mỗi năm, vợ chồng chúng tôi đều đi xuống Lourdes để kính lễ Đức Mẹ  Lộ Đức. Luôn luôn tôi nhắc nhở nhà tôi,  chúng tôi cùng cầu nguyện cho  người Việt Nam đạt được nền hòa bình theo sở nguyện của họ. Tôi tin rằng  Đức Chúa Trời và Đức Mẹ không bỏ rơi  dân tộc Việt Nam. 
Jean-Marie MÉRILLON
Cựu Đại Sứ Pháp tại Việt Nam http://hoilatraloi.blogspot.
Thêm một người chết tại đồn công an tỉnh Dak Nông
Gia Minh, biên tập viên RFA
2013-03-23
http://www.rfa.org/vietnamese/

Anh Hoàng Văn Ngài qua đời ngay tại trụ sở công an thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Dak Nông.
             Hình do thính giả gửi cho RFA    
Thêm một trường hợp tử vong ngay tại đồn công an dù nạn nhân là người khỏe mạnh trước khi bị đưa vào đó. Vụ việc được ghi nhận tại trụ sở Công an thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Dak Nông.
Người khỏe bị nhốt tại đồn công an và chết
Nạn nhân được người nhà cho biết là ông Hoàng Văn Ngài, sinh năm 1974, cư ngụ tại xã Quảng Thành, thị xã Gia Nghĩa tỉnh Dak Nong. Ông này qua đời ngay tại trụ sở công an thị xã Gia Nghĩa.Ông này cùng người em là ông Hoàng Văn Tá và một người thân bán lại rẫy cho hai anh em là ông Sùng A Tú, cùng vợ của cả hai anh em bị công an xã và thị trấn Gia Nghĩa đến bắt đi khi họ đang dọn khu rẫy đó hồi ngày 14 tháng 3 vừa qua. Lý do mà phía cơ quan chức năng nêu ra để bắt giữ tất cả là vì họ phá rừng.
Sau hai ngày giam giữ hai người vợ của hai anh em Hoàng Văn Ngài và Hoàng văn Tá được cho về; trong khi đó những người đàn ông vẫn bị giam giữ tại trụ sở công an thị xã Gia Nghĩa.
Việc bắt giam được tiến hành mà không có lệnh gì hết như lời ông Hoàng Văn Tá cho biết vào ngày 22 tháng 3 như sau:
“Họ bắt đột xuất, không có giấy tờ báo lệnh bắt về điều gì cả. Những ngày tạm giam họ cũng không có quyết định gì cả. Họ giam hai anh em chúng tôi cùng hai bà vợ: vợ anh Ngài và vợ tôi nữa.”
Dù bị bắt chung nhưng mỗi người đều bị nhốt riêng ở một phòng khác nhau. Ông Hoàng văn Tá kể lại sự việc dẫn đến cái chết của người anh Hoàng văn Ngài như sau:
Họ tự mổ thi thể mà không có sự đồng ý của người nhà. Kết quả khám nghiệm không có thương tích gì. Ông Ngài tự tử.“Vào ngày 16, khoảng 17 giờ, họ thả vợ tôi cùng vợ anh Ngài ra về rẫy. Đến ngày chủ nhật 17, công an thị xã Gia Nghĩa có thả anh Ngài và tôi ra dọn vệ sinh, lau nhà, rửa xe. Đến khoảng 3 giờ chiều, khi đang điều tra tại phòng anh Ngài, nghe có tiếng ồn, va đập vào tường rất nhiều, ồn ào. Khoảng 16 giờ tôi xin cán bộ công an ra ngoài đi tiểu. Công an dẫn tôi ra ngoài đi tiểu; nhưng tôi không nhìn qua cửa sổ phòng anh Ngài như mọi khi. Khi tiểu xong về, tôi nhìn qua cửa sổ phòng anh Ngài, loại cửa làm bằng kính, đóng kín. Tôi thấy anh Ngài đưa hai tay như là cầu cứu. Tôi xin công an cho tôi đứng lại để xem anh Ngài cần thiết cái gì, công an bảo tôi phải đi vào phòng nhanh, không ngó gì hết. Công an đưa tôi vào phòng.Anh Hoàng văn Tá
Một lát sau, công an đi đá bóng về, một công an đi trước chạy về bảo rằng ‘Ôi, ông này chắc chết rồi’. Một lúc sau họ gọi điện xe taxi Mai Linh đến trước cửa trụ sở công an. Họ kéo anh Ngài ra đưa lên xe taxi bốn chỗ, đi cấp cứu. Lúc đó tôi thấy tình hình không ổn, tôi đập cửa nói họ cho tôi ra ngoài để tôi đi thăm nuôi anh tôi. Họ nghiêm cấm, đóng chặt cửa phòng, không cho tôi ra ngoài để thăm nuôi anh tôi. Tôi khóc và ngất khoảng 30 phút; sau đó tôi xin cho tôi ra ngoài để đi theo anh Ngài, thăm nuôi anh. Tôi chắc anh Ngài chết rồi; nhưng họ ngăn tôi đến ba giờ sáng không cho tôi đi thăm anh Ngài.
Đến sáng hôm sau, 5 giờ sáng tôi dậy sớm và nói với công an cho tôi về thăm anh Ngài. Nhưng họ ngăn tôi đến 8 giờ sáng họ mới đưa tôi lên. Có một công an gọi tôi lên phòng trực ban, hội trường của cơ quan. Tôi cùng một công an lên đó, và gặp người nhà ở đó nói là ‘anh chưa biết anh Ngài chết à?’. Vậy là tôi mới biết anh Ngài chết thật, như hôm qua. Họ đưa xác anh Ngài vễ chỗ nhà tang lễ của bệnh viện Đa Khoa tỉnh Dak Nong. Họ mổ thi thể của anh Ngài không có sự chứng kiến của gia đình. Họ lấy một người cũng bị giam giữ trong phòng đứng ra chứng kiến việc mổ thi thể anh Ngài. Họ tự mổ thi thể mà không có sự đồng ý của người nhà. Kết quả khám nghiệm không có thương tích gì. Ông Ngài tự tử.”
Ông Sùng A Tú cũng xác nhận việc ông Hoàng Văn Ngài bị chết tại trụ sở Công an thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Dak Nong khi ông này cũng bị giam tại đó dù rằng không tận mắt thấy được sự việc:
“Vâng, chết tại phòng công an luôn đó. Công an cũng giữ cả tôi.Tôi nghe thấy tiếng ghế kêu, ghế động, không thấy tiếng người kêu.”
Công an trốn tránh
Chúng tôi đã nhiều lần cố gắng liên lạc với ông Châu, phó trưởng Công an thị xã Gia Nghĩa. Vào tối ngày 22 tháng 3, sau hai lần bắt máy, ông này nói không nghe rõ điện thoại vì đang dự liên hoan của một ngân hàng tại đó.Sang đến chiều ngày 23 tháng 3, chúng tôi gọi lại, máy tắt không thể liên lạc được.
Quyết đòi công lý

Anh Hoàng Văn Ngài qua đời ngay tại trụ sở công an thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Dak Nông. Hình do thính giả gửi cho RFA.
“Đây là vấn đề bức xúc vì anh Ngài chết tại phòng Công an. Đề nghị các cấp xem xét, xem lại việc anh Ngài bị chết tại cơ quan công an để lấy công bằng cho công dân Việt Nam chúng tôi, thì chúng tôi mới tin tưởng vào sự lãnh đạo của đảng, chính quyền địa phương. Gia đình đang đòi hỏi sự công bằng, hợp lý của Nhà nước Việt Nam. Đòi hỏi nguyên nhân làm sao anh Ngài chết; mà anh Ngài là một người khỏe mạnh khi công an đến chở anh Ngài từ lán đi. Trước đây anh Ngài không hề có bệnh tật mà sao lại chết tại cơ quan công an?”
Suốt mấy năm qua tại nhiều địa phương trong cả nước đã xảy ra những vụ chết ngay tại trụ sở Công an và cơ quan này cho rằng nạn nhân hoặc đột tử, hoặc tự tử mà chết. Thế nhưng người thân của những nạn nhân đều cho rằng giải thích đó của công an không thỏa đáng, và họ nghi ngờ chính những người giam giữ đã gây ra cái chết cho thân nhân của họ. Một số gia đình quyết đưa vụ việc đến các cơ quan chức năng để khiếu kiện, nhưng phần thua thiệt bao giờ cũng thuộc về gia đình nạn nhân có người thân đã mất.
Subscribe to:
Comments (Atom)

